Tập 1
Tác giả: TÀO LẬP SAN
Dịch giả: Tiểu đệ Mẫn Đường, CSJB.
link tải file: https://csjbvn.net/wp-content/uploads/2025/04/xuan-phong-thap-nien-tap-1.docx
TẬP 1
ĐỀ TỰ CỦA HỒNG Y VU BÂN
Năm 1977 là năm kỷ niệm linh mục Lôi Minh Viễn tròn 100 tuổi. Một số bạn hữu sinh thời của linh mục Lôi đã thảo luận phải cùng với nhau làm gì đó để kỷ niệm thời khắc này. Linh mục Tào Lập San nói với chúng tôi, ngài ấy dự định đem “Xuân Phong Thập Niên” đăng tải trên Nguyệt San Thánh Hóa in thành sách, làm thành một tiết mục trong rất nhiều hoạt động kỷ niệm. Mọi người nghe xong đều vỗ tay tán thành.
Sau đó không lâu, Ngài ấy liền đem bản thảo giao cho tôi, xin tôi viết lời tựa. Với tình nghĩa và sự liên hệ nhiều năm của tôi với linh mục Lôi, cũng như các đệ tử của ngài ấy, tôi làm sao có thể chối từ đây?
Quá khứ, tôi cũng đã nhìn thấy vài mẩu chuyện Xuân Phong Thập Niên trên Nguyệt San Thánh Hóa. Khi ấy, Tôi đã cảm thấy những mẩu chuyện nhỏ này thật sự rất động lòng người. Hiện tại, nhận được bản thảo này, tôi liền một mạch đọc nhiều câu chuyện trong bản thảo, khiến cho cảm nhận của tôi cũng theo đó mà trở nên sâu sắc hơn, cảm giác như linh mục Lôi một lần nữa tái xuất nhân gian, hiển hiện sinh động trước mắt tôi vậy.
Tuy nhiên, Do mối quan hệ thân thiết của tôi và tác giả của tập sách, tôi không tiện đánh giá hay bình phẩm tác phẩm này, nhưng tôi không thể không nói mấy lời từ tận đáy lòng.
Đầu tiên, tôi phải thừa nhận, tập sách này không phải tác phẩm văn học, cũng không phải tác phẩm lịch sử. Đúng như tên gọi, nó là ghi chép cảm nhận của tác giả đối với những lời nói cũng như hành động của vị Ân Sư; thứ được viết ra là tự sự, chứ không phải là bình luận, đọc lên sẽ khiến cho độc giả có cảm giác chân thực. Mặt khác, bởi vì tác giả và nhân vật chính trong sách là thầy trò, nên cảm giác thân thiết lại càng dạt dào gấp bội. Khi mời tôi viết đề tựa cho tập sách này, tác giả cũng muốn tôi sửa tiêu đề sách thành “Tinh Thần Minh Viễn”, nhưng tôi vẫn kiên quyết muốn giữ nguyên tên gọi ban đầu, chính là vì để giữ lại “Hồn cốt chân thực” vốn có của tập sách này.
Tiếp theo, đối với văn phong của tác phẩm, cũng giống như chính con người tác giả vậy, vô cùng chất phác và tự nhiên; mặc dù có người nói nó quá ư “Khẩu ngữ hóa”, nhưng đọc (nghe) lên lại chẳng hề cảm thấy “Thô ráp khó chịu”, nhưng vẫn là cảm giác nhẹ nhàng trôi chảy, khiến cho người ta tự nhiên sẽ cảm thấy “Thống khoái”.
Một điểm khác nữa có sức hấp dẫn rất lớn của quyển sách này là nó luôn luôn lấy phương pháp “Đến điểm là dừng” để tường thuật những câu chuyện động lòng người. Nó không hề có sự “Tô son trét phấn”, đơn giản như sự chất phác của tác giả vậy. Chính vì thế, những câu chuyện này không những không khiến cho độc giả cảm thấy chán ngán, mà còn luôn cảm thấy cái “Dư vị bất tận” khiến người ta chìm vào trong câu chuyện được kể. Bởi những thứ tác giả kể lại đều là những thứ mà tác giả đã dùng chính đôi mắt mình thấy, chính đôi tai mình nghe, đồng thời cũng chính là những thứ mà chính con tim tác giả đã đích thân thấu cảm và thể nghiệm, ngõ hầu phản ánh trung thực cái tinh thần của linh mục Lôi, như người ta vẫn nói: “Hành động thì có sức mạnh hơn lời nói”. Vậy nên, cuốn sách này sở dĩ có nhiều chỗ động lòng người, nguyên nhân của nó cũng chính tại điểm này, là thứ mà tựa đề cuốn sách này truyền tải vậy.
Đức Hồng y Vu Bân
Ngày 23 tháng 4 năm 66 Dân Quốc
Nhiều năm về trước (1955), khi “Lôi Minh Viễn Truyền Kỳ” – bản tiếng Pháp được xuất bản, sự kiện ấy đã làm dấy lên một làn sóng không lớn nhưng cũng không hề êm dịu trong giới Linh mục Âu châu. Lúc bấy giờ, Giáo hội Đài Loan cũng ít nhiều bị ảnh hưởng bởi sự kiện này. Đương thời “Lôi Minh Viễn Truyền Kỳ” – bản tiếng Trung vẫn chưa thành hình, nhưng không thể nói là không chịu ảnh hưởng bởi sóng gió này. Có một vị đồng đạo Âu châu mà tôi rất thân thiết đã nói với tôi: Anh “theo” linh mục Lôi Minh Viễn nhiều năm như vậy, đối với đời sống tu đức của ngài ấy đương nhiên cũng là tường tận hơn ai hết; anh có thể biên chút ít, giới thiệu khuôn mặt chân thực của ngài ấy, để mọi người có thể chiêm ngưỡng và học đòi con đường tu đức của ngài ấy. Tôi tin là việc này sẽ ích lợi lớn hơn nhiều về việc “Uốn nắn nhân tâm” cũng như “Phát huy con đường thánh thiện ấy” so với “Lôi Minh Viễn Truyền Kỳ”, và hơn nữa, tuyệt đối sẽ chẳng khuấy động một con bão mới đâu.
Cùng với sự cổ vũ của vị đồng đạo ngoại quốc này, tôi đã thử viết một hai đoạn, đăng tải trên tuần báo “Đời Sống Giáo Hữu”. Có lẽ vì thời cơ vẫn chưa chín mùi, nên tôi không thể không dừng lại.
Năm năm sau, sóng gió của “Lôi Minh Viễn Truyền Kỳ” bản tiếng Pháp dần dần lắng xuống, bản tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Đức, tiếng Ý cũng nối tiếp ra đời, cuối cùng bản tiếng Trung cũng đã diện kiến mọi người vào năm 1963 (không lâu sau đó, bản tiếng Việt cũng được xuất bản ở Sài Gòn), không ít bạn bè lại thúc đẩy tôi viết đại loại như “Minh Viễn Giai Thoại” hoặc “Lôi Công Tu Đức”. Tôi đã đáp ứng thử viết, nhưng trên thực tế lại chưa có khởi động gì?
Sau khi nguyệt san “Thánh Hóa” được xuất bản ở Đài Trung, có người lại khơi chuyện cũ: tại sao không đem “Đời sống tu đức” của linh mục Lôi đăng tải chút ít, cung cấp cho mọi người một chút chất liệu và gương mẫu để “Thánh hóa” đời sống bản thân? Tôi đã lo lắng suy nghĩ một thời gian, và quyết định dùng chút thời gian rảnh rỗi, sau những công việc thường nhật, để viết vài mẩu chuyện thử xem thế nào.
Người viết bất tài, không dám ngông cuồng nói “Tu đức”, chỉ đem “Cái nền giáo dục tốt đẹp” mà chính mắt đã thấy, chính tai đã nghe, cũng như đích thân nghiệm thấy trên người linh mục Lôi, liền theo trí nhớ và tất cả cảm xúc của bản thân viết xuống không theo một thứ tự nào cả, mỗi đoạn mỗi đề, dài ngắn khác nhau, tự thành một đơn vị, mỗi đoạn với nhau cũng không nhất định có tính liên quan.
Tôi bắt đầu theo linh mục Lôi từ ngày 18 tháng 6 năm thứ 19 Dân Quốc, tới ngày 24 tháng 6 năm 29 Dân Quốc, ngày linh mục Lôi trút hơi thở cuối cùng, tổng cộng là mười năm lẻ một tuần. Vì thế, trong tổng thể của “Xuân Phong Thập Niên”, bắt đầu dùng bút danh “Theo Minh Viễn” để viết ra tất cả các cảm nhận của bản thân đối với linh mục Lôi.
Không lâu sau khi đăng tải mấy bài viết “Xuân Phong Thập Niên” trên nguyệt san “Thánh Hóa”, xuất phát từ phản ứng tốt đẹp vượt kỳ vọng của không ít độc giả, có người viết thư, có người gặp mặt trực tiếp, đều cho rằng mỗi lần xuất bản đều quá ít, vẫn chưa thỏa mãn cái may mắn của họ; Cũng có độc giả tiến cử bài viết kém cỏi của tôi cho những tập san khác; Có độc giả còn gửi thư nói: mỗi lần đọc xong “Xuân Phong Thập Niên”, tinh thần của linh mục Lôi luôn khiến anh ta rơi nước mắt…
Sau khoảng 5 năm như thế, có người đã đề xuất đem “Xuân Phong Thập Niên” xuất bản thành sách. Trên nguyên tắc, tôi cũng đồng ý với đề xuất này, nhưng đương thời cảm thấy thứ đã viết ra e rằng quá ít, vả lại cũng chưa có cơ hội thích hợp, cho nên vẫn lần lữa chẳng có xuất bản thành sách. Năm nay vừa vặn 100 năm ngày sinh của linh mục Lôi, mà “Xuân Phong Thập Niên” cũng đã viết được mười năm, sự tình được kể lại cũng vừa vặn viết tới cái chết của linh mục Lôi. Đây chính là cơ hội tốt nhất, để tôi quyết định xuất bản tập sách này, làm món quà kỉ niệm tuổi một trăm của linh mục Lôi, cũng là để báo đáp sự kỳ vọng và yêu mến nồng hậu của quý độc giả.
Quyển sách này được xuất bản với sự trợ giúp đắc lực của không ít bạn bè: đầu tiên là sự cổ vũ của rất nhiều độc giả; tiếp theo là sự đầu tư và cổ vũ của ông Tống Học Nhân, Hoa kiều Tây Đức, ngoài ra còn có ông Hoàng Hồng Ân, Tổng Biên Tập Nguyệt San “Thánh Hóa” đã góp phần cho công việc chuẩn bị xuất bản, và rất nhiều những người khác đã trực tiếp hay gián tiếp giúp đỡ xuất bản, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến quý vị.
Tôi cũng xin cảm ơn hồng y Vu Bân đã đề tự cho cuốn sách này, để tác phẩm thêm phần sáng rõ rực rỡ.
Chân Phúc Viện Đài Trung,
Ngày 25 tháng 4 năm 66 Dân Quốc
“Tình yêu Đức Kitô thức bách tôi”
(2Cr 5,14)
Lôi Minh Viễn có lẽ là một cái tên xa lạ đối với phần lớn người Việt Nam, Mặc dù hội dòng do ngài ấy sáng lập đã hiện diện ở nước ta từ khi nước ta vẫn còn chia cắt (1963).
Là một tu sỹ của bổn hội, hẳn bản thân người dịch cũng ước mong cho danh thơm tiếng tốt, cho nhân đức trổi vượt của ngài ấy được biết đến, ngõ hầu Danh Chúa Giêsu được cả sáng. Tuy nhiên, sách vở viết về ngài ở Việt Nam tương đối hạn chế, ngay cả trong chính hội dòng mà ngài đã sáng lập.
Vì thế, Với sự động viên của một của một số bạn hữu, và ước mong đem chút sức mọn để bạn hữu gần xa, đặc biệt là các anh chị em theo bước chân ngài ấy trong hai hội dòng Gioan Tẩy Giả và Têrêsa Hài Đồng Giêsu tại Việt Nam được biết thêm về vị cha chung đáng kính này. Người dịch với chút tài mọn cố gắng đem tinh thần của ngài ấy lan tỏa, hy vọng có thể nhóm lên trong lòng mọi người, ngọn lửa ngài ấy đã đốt lên trong người viết, để Danh Chúa được vinh danh.
Hy vọng, mọi người sẽ bỏ qua và đón nhận những thiếu xót của bản thân người dịch.
Xin chân thành cảm ơn tất cả mọi người!
Tiểu Đệ Mẫn Đường
MỤC LỤC
TẢNG BĂNG DƯỚI ÁNH MẶT TRỜI. 21
TÔI LÀM TRƯỚC, BẠN LÀM THEO.. 24
CƯƠNG LĨNH TU ĐỨC CỦA LINH MỤC LÔI. 29
ÂM NHẠC – NƠI BIỂU LỘ CHIỀU SÂU TU ĐỨC.. 35
CÂU CHUYỆN HAY VỀ ĐỨC TIN.. 40
HÔM NAY TÔI, NGÀY MAI BẠN.. 46
CÔNG VIỆC THIÊNG LIÊNG LÀ TRÊN HẾT.. 67
THÁNH PHANXICÔ ASSISI TẠI THẾ.. 75
KHÔNG KHÍ THẦN THIÊNG CỦA TUẦN THÁNH.. 81
SỰ CHÂN THÀNH NGU NGỐC ĐÁNG YÊU.. 83
SỢ BỊ LỪA MÃI KHÔNG BIẾT YÊU NGƯỜI. 85
NGƯỜI TRUNG QUỐC CÓ THỂ THÀNH THÁNH KHÔNG?. 92
HÒA MÀ KHÔNG TAN, LÀ KẺ MẠNH VẬY!. 98
LINH MỤC LÔI ĂN TẾT KHÔNG?. 112
CHỈ MÀNG GIEO GIỐNG, KHÔNG MÀNG KẾT QUẢ.. 114
SỰ QUẤY RẦY ĐỘNG LÒNG NGƯỜI. 117
ĐEM THAN HỒNG CHẤT TRÊN ĐẦU HỌ.. 120
TINH THẦN CĂN BẢN CỦA THÁNH GIOAN TẨY GIẢ.. 124
VIỆC QUA RỒI HÃY ĐỂ NÓ QUA ĐI. 129
CHỊU THƯƠNG CHỊU KHÓ (chịu khổ chịu oán). 131
CHỊU KHỔ DỄ, CHỊU OÁN MỚI KHÓ.. 133
VIỆC VUI TRONG CUỘC ĐỜI NHIỀU LẮM… 136
SỰ HÀI HƯỚC CỦA LINH MỤC LÔI MINH VIỄN.. 143
(I) Người Trung Quốc Thuần Túy. 143
(II) Tôi Sớm Đã Là Người Trung Quốc Rồi 144
(III) Hiện Tại Thật Sự Đã Thành Người Trung Quốc. 145
(IV) Chỉ E Đuổi Không Kịp. 146
(V) Bạn Không Phải Người Phàm… 148
(IV) Con Tim Ung Dung Thoải Mái 155
HỘI NHỮNG NGƯỜI KHÔNG CAM CHỊU.. 157
MỘT LỄ GIÁNG SINH KHÓ QUÊN.. 166
(II) Khánh Thành Tòa Giám Mục. 168
(III) Giống hệt Như Lễ Tang. 169
KẺ MẠNH BÀN CHUYỆN BỆNH TẬT.. 171
BA ĐẠI BÁU VẬT CỦA CUỘC ĐỜI. 178
BA GIAI ĐOẠN KỶ LUẬT BẢN THÂN.. 186
LINH MỤC LÔI, KHÔNG TRÁNH NẮNG SAO?. 205
LỄ PHẨM GIÁNG SINH TUYỆT VỜI NHẤT.. 218
(II) Viên Đá Bướng Bỉnh Gật Đầu. 221
KHÔNG CẦN LƯƠNG, CHỈ CẦN CÔNG VIỆC.. 238
KHÔNG CÓ CÁCH NÀO BÁO ĐÁP ĐẤT NƯỚC SAO?. 246
MẢNH ĐẤT KHÔ CẰN ĐÁNG THƯƠNG?. 254
KHÔNG BỎ QUA BẤT CỨ CƠ HỘI NÀO.. 258
LINH MỤC LÔI PHÁT TÀI RỒI!. 266
LẠY THÁNH MẪU, MẸ CỦA CON!. 272
PHAOLO TRƯƠNG, HẸN GẶP Ở THIÊN ĐƯỜNG!. 276
LẠNH NGOÀI THÂN NHƯNG ẤM TRONG TIM… 281
CÓ LINH MỤC LÔI Ở ĐÂY, KHÔNG SỢ CHẾT.. 292
LINH MỤC LÔI BỊ THƯƠNG RỒI!. 294
ĐỐT BẢN THÂN CHIẾU SÁNG NGƯỜI KHÁC.. 296
CÙNG ĐƯỜNG ẮT CÓ LỐI THOÁT.. 305
MỘT HÀO MUA HAI MƯƠI CÁI TRỨNG.. 313
ẤN TƯỢNG BAN ĐẦU
Ba chữ “Lôi Minh Viễn” lần đầu tiên xuất hiện trước mắt tôi, là khi tôi học năm nhất ở Bắc Bình. Đó là mùa đông năm thứ 15 Dân Quốc, hai vị giám mục Triệu Hoài Nghĩa và Tôn Đức Trinh vừa từ Roma nhận chúc phong trở về, trường học của chúng tôi đã mở tiệc chào đón rất long trọng. Trong lời chúc mừng của hiệu trưởng Trương Tốn Phủ (Tu sỹ聖母會) có hai câu “Trong thánh lễ tấn phong giám mục, Lôi Minh Viễn đã khóc suốt hai giờ đồng hồ”. Sau đó, chúng tôi lần lượt truy hỏi và đã được biết không ít những câu chuyện truyền kỳ về linh mục Lôi từ miệng của hiệu trưởng Trương. Mặc dù đều là những mẩu truyện ngắn nhưng lại rất cảm động lòng người.
Giữa tháng 2 năm sau đó (năm Dân Quốc thứ 16), linh mục Lôi được đặc ân trở lại Trung Quốc, quê hương thứ hai của ngài, và thi hành sứ vụ truyền giáo trong giáo phận An Quốc, nơi giám mục Tôn đang coi sóc. Giữa tháng 10 năm đó, linh mục Lôi theo lời mời của giám mục Triệu, đã đến giáo phận Tuyên Hóa chủ trì đại hội thành lập Hội Công Giáo Tiến Hành. Trên đường đi, ngài ấy đã dừng chân nghỉ ngơi ở Bắc Bình, đồng thời đã đạp xe đến trường chúng tôi (Hắc Sơn Hộ), cách Bắc Bình ngoài 30 cây số để ghé thăm thầy giáo tiếng Trung của ngài, linh mục Hầu Trấn Hải. Khi ngài ấy từ biệt linh mục Hầu, vừa vặn chứng tôi cũng tan học, đang hoạt động tự do ngoài sân trường. Bất ngờ thay, một cảnh tượng chưa từng thấy, đám học sinh chúng tôi như một đàn ong vỡ tổ thi nhau chạy đến bên bức tường thấp của sân trường, vừa chạy vừa la: “Nhìn kìa! Linh mục Lôi Minh Viễn! linh mục Lôi đến rồi!”
Đang khi thất thểu chạy đến chân tường, tôi nhìn thấy linh mục Lôi không phải là mặt đi về hướng chúng tôi, mà là lưng hướng về phía chúng tôi: thân hình khẳng khiu, vóc dáng thấp thấp, đầu trọc, giày vải, vạt áo dài vải thô, tay nải treo cái tẩu dài, tay vịn xe đạp, đang hướng đi ra cửa lớn. Khi ấy, hình bóng của linh mục Lôi trong hiểu biết ngây thơ của tôi, chỉ là một ông lão nhỏ thó vừa nghèo vừa thấp không hơn không kém. Tôi kìm không được lòng mà thốt lên một câu: “Lôi Minh Viễn, chẳng qua cũng là như vậy thôi!”
Một bạn học lớp cao cấp ngay lập tức cải chính tôi, nói: “Đừng xem thường ông lão già nghèo ấy, ông ta không phải nghèo, mà là nhà khổ hạnh; không có ông ta, thì không có giám mục Trung Quốc, ông ta là khách quý của Dinh tổng giám mục – Văn phòng giám mục Cương Hằng Nghị (giám mục Celso Benigno Luigi Costantini), đại diện Giáo Triều thường trú tại Trung Quốc”.
TẢNG BĂNG DƯỚI ÁNH MẶT TRỜI
Trong ngày linh mục Lôi đến thăm thầy giáo của ngài – linh mục Hầu Trấn Hải, cũng đã xảy ra một việc rất kỳ diệu, mà bốn năm sau tôi mới được biết, nó cho tôi một ấn tượng rất sâu đậm, khiến tôi cả đời khó quên. Việc này phải nhân một cơ hội sau đó bốn năm mới được nói ra.
Năm thứ 2 khi tôi theo linh mục Lôi trở thành tu sỹ Dòng Gioan Tẩy Giả, và tạm làm thư ký của ngài. Có một ngày, khi đang sửa soạn văn kiện, tôi đã phát hiện một tấm ảnh, gương mặt trong ảnh thập phần quen thuộc. Tôi bị tâm hiếu kỳ thúc đẩy, lập tức hỏi linh mục Lôi: “Cha biết ngài ấy khi nào vậy? Làm thế nào mà hai người lại trở nên bạn bè?”
Linh mục Lôi đã hỏi ngược lại tôi: “Con làm thế nào biết ngài ấy?”
Tôi nói với linh mục Lôi: “Khi con ở Bắc Bình học tập, vị linh mục này ở Hắc Sơn Hỗ dưỡng bệnh, con thường giúp lễ cho ngài ấy…”
“Ta cũng là ở Hắc Sơn Hỗ biết ngài ấy”. Linh mục Lôi mặt mày hớn hở, tựa như đang ngây ngất trong những ký ức ngọt ngào. Ngài trầm tư trong giây lát, tiếp tục nói:
“Bốn năm trước, khi ta từ nơi lưu đày Babylon (chỉ Âu Châu), được giải thoát trở về Trung Quốc, tổ quốc mến yêu, ta đã đến Hắc Sơn Hỗ, Bắc Bình thăm linh mục Hầu, thầy giáo của ta. Khi chúng ta đang nói chuyện rất vui vẻ, thì có một vị linh mục ngoại quốc xa lạ tiến lại. Linh mục Hầu lập tức trở thành người giới thiệu cho hai chúng ta: “Vị này là linh mục Diệp”. “Vị này là linh mục Lôi Minh Viễn”.
Vị linh mục ngoại quốc dùng ánh mắt kinh ngạc chăm chú nhìn ta, dùng thứ tiếng Pháp thành thục lẩm bẩm nói: “Ngài là linh mục Lôi Minh Viễn? Ngài là P. Lebbe?”
“Không sai, chính là tôi!” ta bình tĩnh nói với ngài ấy.
Ngài ấy đã di chuyển hai bước, hai tay nắm chặt tay phải của ta, bán tín bán nghi hỏi: “Ngài thật sự là linh mục Lôi Minh Viễn?”
“Không sai!” ta bồi thêm một câu: “Tôi là Vincent Lebbe”
Mắt ngài ấy bắt đầu đỏ lên, khóe miệng cũng rung lên.
Cử chỉ của ngài ấy khiến ta như rơi vào trong sương mù, ta không biết phải làm thế nào để phá đi cái cục diện lúng túng đó. Ngay cả linh mục Hầu ở bên cạnh cũng lấy ánh mắt kinh ngạc nhìn hai người chúng ta.
“Xin lỗi ngài! Linh mục Lôi”. Ngài ấy đang nói thì nước mắt đã lăn dài, “Tôi hôm nay đã nhìn thấy, không phải linh mục Lôi mà tai tôi nghe hoặc trong tưởng tượng”. Ngài ấy tiếp tục nói cách nghẹn ngào: “Càng không phải Lôi Minh Viễn mà tôi đã hạ bút viết…. Quá khứ hãy để nó qua đi ah! Tôi phủ định tất cả những gì tôi đã viết về ngài trong quá khứ trên Bulletin de Peking (chú thích của người dịch: Le Bulletin Catholique de Pékin là một tạp chí Công giáo bằng tiếng Pháp xuất bản tờ Lazarists ở Trung Quốc.)….”
Ta như trong mộng bừng tỉnh trở lại, cũng dùng lực siết chặt tay ngài ấy, nói: “Quá khứ, ngài có lý do ngài viết, nhưng, hiểu lầm không thể ngăn cản chúng ta trở thành bằng hữu”.
Từ ngày đó trở đi, hai chúng ta trở thành hảo bằng hữu. Tới nay gần bốn năm rồi, vẫn không ngừng thư từ qua lại.
Tôi nghe đoạn hồi ức vắn gọn này cũng không hỏi ngài ấy thêm: tại sao lần đầu tiên gặp mặt linh mục Diệp, thì đã khiến cho linh mục Diệp đột nhiên thay đổi! vì tôi lần đầu gặp linh mục Lôi, cũng có sự đồng cảm tương tự.
Tôi mặc dù không có truy vấn gì, nhưng lại thêm một lời bình cho câu chuyện nhỏ của ngài: “Khối băng dày bao nhiêu, dưới ánh mặt trời cũng sẽ tan thôi”
Linh mục Lôi chẳng có gật đầu, cũng chẳng phủ nhận lời bình của tôi, chỉ trả lại cho tôi một nụ cười nhẹ nhàng.
TÔI LÀM TRƯỚC, BẠN LÀM THEO
Trung tuần tháng sáu năm thứ mười chín Dân Quốc, tôi và bạn học một đoàn chín người đi đến Chân Phúc Viện An Quốc mà chúng tôi đã mơ ước từ lâu ( Dòng Tiểu đệ Thánh Gioan Tẩy Giả), vị tu sỹ canh cổng lập tức dẫn chúng tôi đến chào linh mục Lôi Minh Viễn. Ngài mặt mày rạng rỡ khi tiếp đón chúng tôi, chẳng có một lời khách sáo, chỉ nói vài câu ngắn gọn, liền đưa chúng tôi đến phòng khách uống trà. Ngài ấy nói: “Cha chào đón mọi người gia nhập hội dòng mới của chúng ta. Khi ánh mắt hồn nhiên trong sáng của các bạn hướng nhìn về cha, cha liền cảm thấy tiền đồ mới, sinh mệnh mới, và hy vọng mới cho Giáo Hội Trung Quốc, tất cả dường như đều hiện lên trước mắt cha, để chúng ta ở Trung Quốc mới cùng nhau xây dựng Giáo Hội Chúa Kitô”. Mấy lời ngắn gọn giống như hoa lửa vậy, trực tiếp ghim vào linh hồn bé nhỏ của chúng tôi. Khi chúng tôi rời khỏi văn phòng làm việc của ngài ấy, trong tim cũng ngập tràn cảm giác hưng phấn, cao quý, và nghiêm túc muốn học theo.
Ước chừng qua đi khoảng 15 phút, chín đứa tiểu tử trẻ người non dạ chúng tôi đang cao hứng trò chuyện trong phòng khách, bỗng liếc mắt nhìn thấy mười mấy vị tu sỹ đang từ tu viện nhỏ bên cạnh vận chuyển giường về Chân Phúc Viện. Một đứa bạn học nhanh mắt đột nhiên lấy tay chỉ chỏ nhóm tu sỹ, nói: “Các bạn nhìn kìa, linh mục Lôi cũng đang chuyển giường!” Chúng tôi nhìn theo ngón tay bạn chỉ, đều thất thần nhìn linh mục Lôi. Tim của tôi đang đập mạnh mẽ liên hồi.
Vị Huynh Đệ Công Bộc ở bên cạnh tiếp đãi chúng tôi (phó viện trưởng) thấy chúng tôi xuất thần nhìn linh mục Lôi, thì vội vã giải thích: “Hội dòng chúng tôi mới thành lập, vừa nhỏ vừa nghèo. Hôm nay đột nhiên tăng thêm chín người tràn đầy sức sống các bạn, chúng tôi đương nhiên vui vẻ, nhưng, giường chiếu đã trở thành vấn đề, đêm nay chỉ có thể tạm thời mượn mấy chiếc giường của tu viện nhỏ bên cạnh. Ngay cả linh mục Lôi cũng đích thân vận chuyện, đây là một trong những tác phong động lòng người của ngài ấy trong công việc, về sau, các bạn sẽ phát hiện nhiều hơn những việc sự tương tự”.
Sau đó, vị Huynh Đệ Công Bộc dắt chúng tôi tới phòng tự học, vừa vào cửa thì xa xa đã nhìn thấy trên bức tường, bên cạnh bàn làm việc của linh mục Lôi dán một bức biểu ngữ lớn: “Tiên Chi Lao Chi”. Vị công bộc giảng giải nó và nói với chúng tôi: “Các bạn đã hiểu rõ chưa? Đó chính là tinh thần Minh Viễn”.
SỰ KHIÊM TỐN CHÂN THÀNH
Chân Phúc Viện mới thành lập tràn đầy thứ hạnh phúc thật của Thánh Phanxico năm dấu, chính là sự nghèo khó. Bởi vì chín người chúng tôi đột ngột đến, khiến mỗi phòng của Chân Phúc Viện đều trở nên đặc biệt nhỏ bé, phòng ăn cũng trở thành một vấn đề đối với tu viện, bởi không thể cùng lúc chứa tất cả nhiều người như thế cùng dùng cơm, nên Anh nghèo khó (quản lý) đã kiến nghị tạm thời phân thành hai nhóm ăn cơm. linh mục Lôi đã đồng ý, và sắp xếp cho chúng tôi, những người đang muốn trở thành tu sỹ dòng Gioan tẩy giả, vào nhóm đi ăn cơm sau. Khi nhóm thứ nhất đang dùng cơm, chúng tôi do Anh Công Bộc dẫn tới nhà tự học đọc Kinh Thánh.
Buổi trưa một ngày nọ, khi các tu sỹ đang dùng bữa trưa, còn chúng tôi thì đang tập trung nghe Kinh Thánh. Đột nhiên, linh mục Lôi một mình đi ra khỏi phòng ăn, đi về phía chúng tôi, ngài ấy vừa tiến vào phòng tự học, chẳng để ý đến chúng tôi đang đang đứng chào ngài ấy, trực tiếp đi thẳng đến trước mặt anh công bộc đang đọc Thánh Kinh, phịch một cái, quỳ xuống, đầu cúi tận đất. Nói thì dài dòng nhưng quả thật mọi việc diễn ra rất nhanh, anh công bộc cũng ngay lập tức quỳ xuống, vội vã đưa tay đỡ linh mục Lôi dậy. Linh mục Lôi sau đó lẩm bẩm nói: “Huynh đệ, xin lượng thứ, vì tôi mới nổi nóng với anh”. Nói xong, quay người rời đi hết sức tự nhiên và bình thản, trở lại phòng ăn tiếp tục dùng bữa.
Sau khi linh mục Lôi rời đi, một đám chúng tôi giống như chạm vào dòng điện, đột nhiên từ nín lặng thành xáo động, không khí trong phòng tự học có chút căng thẳng, có người thở ngắn than dài, có người đang dụi mắt, có người đang khóc ròng, cũng có người khuỵ xuống ôm đầu, mưu đồ dấu đi biểu tình trên mặt, nhưng lại chẳng có một ai nói gì.
Qua thời khắc ấy, giọng run run của anh công bộc phá đi sự trầm mặc: “Chúng ta không cần tiếp tục đọc Kinh Thánh nữa, anh em đã đọc một bộ Kinh Thánh sống, mặc dù chỉ có vài giây ngắn ngủi, nhưng cả đời thu ích không vơi. Tác phong khiêm nhường kinh người của Linh mục Lôi thật không phải là lần đầu tiên mới diễn ra như thế. Mọi người không để ý à? Ngài ấy làm như thế hết sức tự nhiên, hết sức chân thành, không mang bất cứ sự kiểu cách nào”.
“Giống như thánh tông đồ Phaolo vậy” anh công bộc ho một tiếng, tiếp tục nói: “Tính cách của linh mục Lôi là tính cách nhiệt liệt. Vâng! Nếu ngài ấy không có cái tính cách nhiệt liệt ấy, thì không thể làm những việc lớn cách sôi nổi mãnh liệt như thế”.
“Sáng nay” giọng anh công bộc càng thêm run rẩy, nói cách lắp bắp: “Linh mục Lôi giao cho tôi một công việc, tôi làm…không được…gọn gàng. Ngài ấy biểu lộ sự không vui đối với tôi, đó là việc hết sức tự nhiên. Chẳng có ai, ngay cả bản thân tôi cũng cho rằng đó là nổi giận, mà cho dù đó thật sự là nổi giận, cũng nói không ra đó là lỗi gì. Nhưng, linh mục Lôi vẫn hướng về người dưới xin lỗi, hơn nữa lại còn quỳ xuống. Đây là sự khiêm nhường phi thường và đức hạnh kinh người”.
Trong thời gian mười năm mà kẻ đang viết sống cùng với linh mục Lôi, đã tận mắt ba lần nhìn thấy hành động cúi đầu này. Ngài ấy không chỉ làm như vậy, mà còn muốn đệ tử của ngài cũng đi làm như vậy. Ngài ấy mỗi lần gặp thấy tu sỹ của mình nổi giận, luôn lệnh cho tu sỹ ấy đi tìm đối phương quỳ xin tha thứ. Ngài ấy thường dẫn lời của thánh Phaolo khuyên chúng tôi: anh em đừng để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn (Ep 4,26).
CƯƠNG LĨNH TU ĐỨC CỦA LINH MỤC LÔI
Tôi phải thừa nhận, trong khía cạnh tu đức, linh mục Lôi chẳng có viết cho chúng tôi một bộ tu đức có hệ thống. Thời kì tập viện, ngài ấy cũng chẳng dùng một bộ giáo trình tu đức nào mà người khác viết để dạy chúng tôi, ngài ấy phát cho mỗi người một bộ Tân Ước, một cuốn sách tiểu sử tâm linh (Hồi ký của thánh Têrêxa hài đồng, do Mã Tương Bá dịch), và một quyển luật Dòng Biển Đức.
Ngài ấy nói với chúng tôi: căn nguyên của đời sống tu đức là Thánh Kinh. Đương nhiên chúng ta có thể từ sông suối mương rãnh (tức các nền tu đức học của các học phái) hấp thụ nguồn dinh dưỡng cho đời sống tu đức. Nhưng nếu đến gần nguồn cội, nước được hấp thụ không phải càng thanh khiết mát lành hơn sao?
Ngài ấy giảng “Giáo huấn trên núi” của Chúa Giêsu, đặc biệt là “Tám mối phúc thật”, ngài ấy đã dùng trên hai mươi giờ để khai triển tinh thần tu đức và phương pháp tu đức trong đó. Linh mục Lôi mặc dù chẳng có lưu lại cho chúng tôi một bộ tu đức có hệ thống, nhưng lại có phương pháp tu đức rất linh hoạt, đó chính là ba câu vè tu đức “Toàn, Thật, Thường” rất nổi tiếng và được nhiều người ưa chuộng. Ba phó từ này đan dệt với nhau, không thể trở thành một câu hoàn chỉnh. Nếu bạn lần đầu nhìn thấy hay nghe thấy, nhất định không thể hiểu ý nghĩa của nó.
Ba phó từ này là viết tắt của “Toàn hy sinh, Thật yêu người, Thường vui vẻ”. Linh mục Lôi vì biểu dương tinh thần triệt để của Chúa Giêsu, cũng vì để vang sáng trong cách hành văn và nói chuyện, ngài thường gọi tắt là “Toàn Thật Thường” .
Phương pháp tu đức của ngài là phương pháp tu đức đã kinh qua thời gian dài suy tư, nhiều năm nỗ lực thực hành, mà tóm lược thành đạo lý. Nó không phải là thứ có sẵn đầy đủ nguyên hình, nhưng là thứ chầm chậm thấu lộ, chầm chậm được khai sáng, và cuối cùng hình thành nên một phương pháp tu đức có hệ thống.
Ví dụ, “Toàn hy sinh”, vài tháng trước khi tôi gia nhập tập viện thì chưa hề nghe qua. Ban đầu, ngài ấy thường nói: “Từ bỏ tất cả”, “Trút bỏ tất cả”, “Đánh ngã tôi”…, sau này thỉnh thoảng mới nghe thấy “Hy sinh tất cả”. Nhớ lúc chúng tôi lần đầu tiên nghe thấy từ này, thì cảm thấy rất mới lạ và hùng hồn. Tôi lập tức đã viết lại nó, để sau khi tan học, nếu có cơ hội liền xin linh mục Lôi khai triển thêm ý nghĩa và tinh thần của từ ngữ này. Dưới những câu hỏi truy vấn của chúng tôi, Ngài ấy chẳng những không từ chối mà còn lấy đó như một chất liệu để làm sáng tỏ câu chữ trong cương lĩnh tu đức của bản thân. Trải qua nhiều lần như thế, linh cảm và tinh thần của ngài liền bộc phát ra từ “Hy sinh tất cả”, từ đó, từ “Toàn hy sinh” liền phủ kín và gần như thay thế hoàn toàn từ “Từ bỏ”.
Hai từ khác “Thật yêu người” và “Thường hy sinh” cũng vậy, đó không phải là câu chuyện một sớm một chiều đã nên bột nên hồ, nhưng đằng sau nó là cả một quá trình chầm chậm thành hình.
Về việc ứng dụng kết hợp ba từ trên, chí ít là sau một năm gia nhập hội dòng, tôi mới nghe thấy từ nơi miệng ngài ấy chầm chậm phát ra. Khi “Toàn Thật Thường” được phát ra thương xuyên hơn trên môi miệng của ngài, một ngày nọ, tôi thấy công việc của ngài không quá bận, ngài ấy đang đọc một bản tạp chí tiếng Pháp (L’Esprit), tôi đã mạn phép xin ngài đem phương pháp tu đức này, dùng từ ngữ đơn giản nhất, viết ra một cương yếu. Ngài đã đáp ứng, không tới hai mươi phút, ngài dùng bút chì viết ra mấy câu dưới đây:
Trong phương pháp tu đức, chúng ta không tuyển lựa trường phái nào, cũng không bàn luận nguyên lý tu đức gì, càng không lập dị khác người, chúng ta chỉ là đi theo Chúa Giêsu, vì Ngài ấy là “Đường, Chân lý, và Sự sống”. Vì thế, nguyên lý và phương pháp tu đức của chúng ta là Phúc Âm của Chúa Kitô và Giáo huấn của các Tông đồ.
Nhìn chung, toàn bộ Phúc Âm có thể quy về ba tư tưởng trung tâm, đó là:
Toàn hy sinh: đây là điều kiện làm môn đệ của Chúa Giêsu mà Ngài ấy đã nhiều lần tuyên bố.
Thật yêu người: là tất cả đầu mối then chốt của Ngôn sứ và lề luật, là dấu hiệu của Kitô hữu, là mục tiêu tu đức của chúng ta.
Thường vui vẻ: là hiệu quả đi theo Chúa Giêsu, cũng là tác phong cần có trong đời sống tu đức: “Anh em phải thường vui trong Chúa” (Phi 4,4; Mt 5,12; Rm 12,12).
Bản bút chì của linh mục Lôi trên đây, tôi hằng cất giữ nó luôn, nhưng sau thắng lợi của cuộc kháng chiến, tôi phục viên từ tiền tuyến trở về tu viện, đáng tiếc bản thảo quý báu ấy đã không thấy!
BỮA TỐI CUỐI CÙNG
Căn cứ vào những trải nghiệm mười năm sống cùng linh mục Lôi, tôi không phủ nhận ngài ấy là người có kiến thức yên bác và kỹ năng ăn nói rất động lòng người. Tôi cũng không phủ nhận những điều này đều là những thứ rất có hấp lực lôi cuốn người khác, nhưng những thứ đó thật không phải là điều chủ yếu để người khác đến với ngài ấy; thứ cảm động người nhất của ngài ấy, có thể nói chính là sự chân thành trong toàn bộ đời sống. Thiên Chúa sống trong tim của ngài ấy.
Ở đây tường thuật một câu chuyện nhỏ có thể khái quát cuộc sống của ngài ấy.
Giữa tháng sáu năm thứ 19 Dân Quốc, tôi lần đầu tới dòng Gioan tẩy giả, bởi vì phòng ăn quá nhỏ, những người muốn gia nhập hội dòng như chúng tôi, tạm thời cùng với các tu sĩ phải chia nhóm dùng cơm. Sau hai tuần, nhà ăn được mở rộng, chúng tôi mới được đồng bàn ăn uống với các tu sĩ.
Bữa ăn thứ Năm của tuần đầu tiên, chúng tôi, những tiểu tử muốn gia nhập hội dòng, lần nữa đã nhìn thấy điều tuyệt vời trên người linh mục Lôi: ngài ấy noi theo Chúa Giêsu trong Bữa Ăn Cuối Cùng, không phải là rửa chân cho chúng tôi, mà là thay chúng tôi xới cơm, làm “Công bộc” của chúng tôi. Tôi lần đầu nhìn thấy một vĩ nhân nổi danh quốc tế xới cơm cho một đám nhãi nhép lý toét chúng tôi. Trước hành động ấy, không ít người đã xúc động, và cũng có một số thất kinh điên đảo ăn không biết ngon, nhưng vẫn cưỡng ép bản thân không tỏ lộ cảm xúc ra bên ngoài, miễn cưỡng ăn cho xong cơm tối.
Mấy ngày sau, cộng đoàn lại có một người mới. Anh ta cũng đến tìm hiểu về đời sống hội dòng như chúng tôi. Khi bữa cơm tối thứ năm bắt đầu, linh mục Lôi theo lệ xách thố xới cơm cho tất cả mọi người, vị tu sinh mới này đã làm một hành động kinh ngạc: anh ta nắm chặt chén cơm của mình, chết cũng không để linh mục Lôi xới cơm cho anh ta, rồi sụt sịt nói: “Con không đáng để linh mục Lôi xới cơm cho !”
Linh mục Lôi đối diện với cảnh tượng lúng túng này cũng không kinh hoảng, thái độ trước sau vẫn rất bình tĩnh. Anh chàng nọ không để linh mục Lôi bới cơm, linh mục Lôi cũng chẳng làm khó người, chỉ khuyên anh ta đừng lên tiếng, đừng phá bỏ quy định “Ăn cơm không nói chuyện” của hội dòng, rồi liền khoan thai tiếp tục đi xới cơm cho những tu sĩ khác.
Bữa tối lần đó, trong nhà ăn tràn đầy ba loại thanh âm: tiếng đọc Kinh Thánh của một vị tu sĩ, tiếng bát đũa của mọi người, và tiếng khóc nức nở của….
ÂM NHẠC – NƠI BIỂU LỘ CHIỀU SÂU TU ĐỨC
Những ca khúc kinh lễ Đức Mẹ, phần lớn kinh nhật tụng, thánh lễ, kinh văn chầu Thánh Thể mà Hội Dòng sử dụng, đều là những ca khúc do linh mục Lôi soạn thảo. Ngài ấy thích nhất nhạc bình ca, phàm là kinh văn La ngữ có nhạc phổ, ngài ấy vẫn dựa theo âm chủ bản gốc, rồi thêm bớt tăng giảm chỉnh sửa để phù hợp với Trung ngữ. Kinh văn chưa có nhạc phổ, ngài ấy cũng tự mình biên soạn. Gia tài thánh ca của ngài ấy, Chín mươi phần trăm đều là nhạc bình ca, số rất nhỏ khác thì tận dụng âm nhạc truyền thống Trung Quốc soan ra, tuyệt đối không làm ca khúc với âm nhạc hỗn hợp.
Giai điệu ngài ấy sáng tác rất động lòng người, ví dụ: Trong kinh nhật tụng của “Tam nhật vượt qua” có câu: “Giêrusalem, Giêrusalem, trở về với Thiên Chúa của người đi!”, Ngài ấy phối hợp với âm điệu cực trầm và bi thương, mỗi lần hát tới đó, nước mắt sẽ tự động lăn dài. Ngoài ra, ngài ấy cũng đã dựa theo âm chủ vốn có của bài “Salve Regina” tương ứng với bản dịch quốc ngữ “Cung Chúc Mẫu Hoàng”, soạn thành một ca khúc. Khi chúng tôi lần đầu tiên tập hát ca khác này, có một số tu sĩ cảm động đã không cầm được nước mắt mà khóc sướt mướt.
Tôi không phủ nhận linh mục Lôi có tài năng âm nhạc, nhưng tôi càng tin tưởng, những giai điệu đẹp đẽ động lòng mà ngài ấy sáng tác ắt là đến từ sự tu dưỡng của đời sống nội tâm. Trong những năm tháng đi theo ngài ấy, tôi cũng đã nhiều lần hỗ trợ ngài ấy trong công việc in ấn một số bài hát Thánh Kinh. Tôi có để ý thấy, ngài ấy mỗi lần soạn một ca khúc mới, đều đến quỳ trước Thánh Thể cầu nguyện ít phút, sau đó mới đi đến phía sau Thánh Đường, mắt nhắm tay đàn bộc lộ cảm xúc cũng như tâm tình mà ngài ấy muốn diễn tả. Thấy thế, tôi cho là ngài ấy đang đánh loạn, nhưng kỳ thực đó là cách mà ngài ấy đang tìm kiếm linh cảm và sắp xếp nội tâm của bản thân. Khoảng mười phút sau, ngài ấy bắt đầu dùng bút thêm vào những nốt nhạc trên ca từ.
Trong những ngày lễ đặc biệt, hội dòng thường sẽ mời một vị linh mục ở ngoài về cử hành thánh lễ. Khi ấy, linh mục Lôi thường sẽ lui về phía sau, đích thân đánh đàn dạo nhạc, hỗ trợ mọi người hát kinh ca ngợi Thiên Chúa. Có lần, khi vị tu sĩ độc xướng bè cao tuyệt hay, tiếng hát cao vút trời mây, linh mục Lôi liền dừng đệm đàn, trầm ngâm thưởng thức, ngất ngây trong tình yêu thánh.
Để biên soạn kinh nhật tụng lễ sinh nhật thánh Gioan tẩy giả, linh mục Lôi đã bỏ ra không ít tâm huyết, hầu hết nhạc phổ của “Xướng đáp” và “Thánh Vịnh” đều là sáng tác mới của ngài ấy. Khi đã soạn xong tất cả nhạc phổ, ngài ấy vì có việc phải đi Bắc Bình một chuyến, nên đã giao cho tôi cầm đi đi in ấn.
Ba ngày sau, tôi nhận được một lá thư từ Bắc Bình gửi tới, trong thư chỉ thị rất chi tiết tôi phải làm thế nào, phải thay đổi một số nốt nhạc ra sao. Tôi thật sự rất cảm phục ngài ấy, làm sao có thể như thế được, hình như những bản nhạc phức tạp cồng kềnh này đều là những ca khúc ca ngợi Chúa đã in sẵn trong nội tâm ngài ấy vậy.
HY SINH VINH QUANG
Tôi vào tập viện không lâu (Mùa đông năm thứ 19 Dân Quốc), một buổi sáng nọ, chúng tôi đang trong phòng học nghe linh mục Lôi giảng giải Thánh Kinh, đột nhiên người đưa thư đến, gửi cho linh mục Lôi một bức chuyển phát nhanh, ngài ấy mở ra xem, liền cau mày, đọc lớn tiếng: “Bạn tốt của ngài là linh mục Dương, hôm qua, đi làm nghi thức sau cùng cho giáo dân (đi xức dầu bệnh nhân), bởi vì đạp xe ngược gió, dùng lực quá mạnh, cuối cùng té mà chết!”. Linh mục Lôi đọc tới đó, tháo kính viễn thị xuống, hai mắt long lanh phát sáng, đem ngón tay cái đưa ra, nói với chúng tôi: “Đẹp lắm, cái chết của linh mục Dương! Chết thật đẹp, cái chết thật là sướng khoái. Chết khi đang làm sứ vụ là cái chết vinh quang nhất. Nguyện có ngày tôi cũng chết đi như vậy”.
Thông tin kinh người bất ngờ này làm đứt đoạn suy tư Kinh Thánh mà linh mục Lôi đang chia sẻ. Ngài ấy xúc động đến nỗi không thể tiếp tục chia sẻ Thánh Kinh. Ngài ấy thuận theo sự cảm khái hiện diện trong tim, chia sẻ bù cho chúng tôi hai câu chuyện nhỏ, một là câu chuyện Chúa Giêsu chết trên cây thập tự chứ không chết trên giường. Một câu chuyện khác là thánh Vinh Sơn Ferrer trước khi lâm tử, đã nhờ người ở bên đỡ dậy, ngài ấy nguyện chết trên ghế, không nguyện ý nằm trên giường mà chết, để biểu thị chí nguyện lớn “Chết khi đang làm việc”.
Sau bữa cơm tối hôm đó, mọi người ngồi quanh linh mục Lôi, lần lượt phát biểu cảm xúc có ý nghĩa của cá nhân trong một ngày. Thuật ngữ của hội dòng gọi là: “Lời cảm tưởng”.
Theo thứ tự tới lượt tu sĩ nọ lên tiếng. Anh ấy nói: “Tin buồn của linh mục Hai Dương sáng nay, với linh mục Lôi mà nói, đơn giản giống như truyền tới một tin tức tráng lệ. Nhưng trong nội tâm con, tới bây giờ vẫn như trống đánh phình phình. Con cảm thấy cái chết của linh mục Dương thực sự rất thảm, ngay cả thời gian chuẩn bị cho cái chết cũng không có, thật đáng thương!”.
Linh mục Lôi không đợi anh ta nói hết, ngắt lời anh ấy, và hướng về anh ấy nói: huynh đệ tốt, Thánh Kinh nói thế nào? Ngươi tại sao không luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng?
Tu sĩ nọ không phục, cãi chày cãi cối: “Lời là nói như thế, con người là thứ thịt tươi, có khi sẽ buông lỏng, trước khi chết có thời gian mấy phút đặc biệt chuẩn bị, luôn là tốt đẹp ạ!”
Mọi người phá lên cười, linh mục Lôi nói nửa đùa nửa thật: “Giêsu không có nhân nhượng ham muốn của “Nhúm thịt tươi này” giống như bạn, hãy cẩn thận a!”
CÂU CHUYỆN HAY VỀ ĐỨC TIN
Trong thời kỳ tập sinh, ngoài việc giảng dạy chúng tôi Thánh Kinh, tiểu sử tâm linh và luật dòng Biển Đức, có khi linh mục Lôi cũng đặc biệt giảng dạy về đời sống siêu nhiên. Nhớ khoảng thời gian không lâu sau khi tôi gia nhập tập viện, linh mục Lôi hai tuần liền đều lấy “Đời sống siêu nhiên” làm chủ đề giảng thuyết cho chúng tôi. Lúc giảng về đức tin, ngài ấy đã nói tới một ẩn dụ tuyệt vời, nó không chỉ đơn giản dễ hiểu mà còn rất sâu sắc, khiến chúng tôi say mê thích thú lắng nghe, đồng thời cũng lưu lại những ấn tượng cực sâu sắc. Dưới đây chính là ví dụ mà ngài ấy trình bày:
Một ngày, có ba người mang một chú chó đi vào một ngôi thánh đường nguy nga tráng lệ. Trong ba người này, có một người không có tín ngưỡng tôn giáo, một người khác là tín hữu Tin lành, và người còn lại là tín hữu Công giáo. Đầu tiên chúng ta hãy quan sát biểu cảm của ba người bọn họ và con chó ở trong nhà thờ.
Con chó, không thể gọi là biểu cảm, chỉ là ngửi đông hít tây, hy vọng tìm được một khúc xương hay thứ gì đại loại như thế.
Người không có niềm tin thì đôi mắt nhìn chằm chằm không rời những bức tượng khắc tả chân và những khung bích hoạ tuyệt mỹ, lâu lâu lại còn không ngừng phát ra những lời ngợi ca thán phục.
Người anh em Tin lành của chúng ta thì sao? ngoài việc thưởng thức nghệ thuật và công trình của nhà thờ, anh ta vẫn ý thức đây là nơi thờ phượng Thiên Chúa. Vẻ bên ngoài của anh ấy rất cung kính trang nghiêm, cảm xúc của nội tâm đều phản ánh ra trên khuôn mặt.
Đối với vị giáo hữu Công giáo nhiệt thành, anh ta rất cung kính hướng mặt về bàn thờ cúi lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, sau đó quỳ xuống một bên, tâm hồn trò chuyện, kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, chân thành và nồng ấm thổ lộ tâm cam.
Người có đời sống siêu nhiên, luôn có ba loại năng lực và cảm giác: Anh ta có nhục dục giống như con chó, cũng có nhân tính, lý trí và ý chí như người bình thường, và cũng có cảm giác siêu nhiên nữa. Người có đủ những thứ trên là người nhận ra Thiên Chúa cũng như sự tuyệt mỹ của Ngài, anh ta sâu sắc hơn những người chỉ có “Tín ngưỡng giai đoạn”, đức tin của những người này là “Đức tin sống”. Vì thế, người có “Tinh thần đức tin”, không chỉ lấy mắt thường nhìn mọi sự trên thế giới, cũng không chỉ lấy cái nhìn thuần nhân (Lý tính) phán đoán mọi sự, cũng không lấy thứ “Đức tin gián đoạn” xử lý mọi chuyện, mà là lấy cái nhìn của Giêsu quan sát, thẩm định, phê bình và quyết định mọi sự. Khi nào ba loại cảm giác này không xung đột, anh ta cũng tuỳ theo yêu cầu của thân xác và nhân tình thế thái hành sự. Trái lại, khi không thể đồng thời tồn tại, anh ấy theo thứ tự hy sinh quan điểm thấp hơn, mà mãi mãi không bao giờ từ bỏ cách nhìn của Giêsu. Đó chính là “Đời sống đức tin” vậy.
BỎ LẠI LỄ VẬT CỦA BẠN
Trong đời sống tu đức, linh mục Lôi chú trọng nhất là đức ái, đặc biệt là “Yêu người”. Khi giải thích ba câu vè tu đức, ngài ấy lần lượt nhắc nhở chúng tôi: “Thật yêu người” là trung tâm của tu đức, “Toàn hy sinh” là điều kiện, “Thường vui vẻ” là hiệu quả.
Ngài ấy thường căn cứ vào nguyên tắc này huấn luyện chúng tôi xử lý mọi công việc của hội dòng. Ngài ấy đối với điểm yếu khác của anh em thì sẽ khoan dung tha thứ; nhưng nếu có tổn hại đến đức ái, ngài ấy quyết không khoan nhượng, mà nhất định phải nhanh chóng giải quyết.
Ngày nọ, Chân Phúc Viện nổi lên việc bất hoà. Linh mục Lôi liền cáo lỗi với mấy vị quan khách, cũng dừng lớp học của tập sinh chúng tôi, vận dụng mọi phương pháp, giải quyết mâu thuẫn, hòng có thể giải quyết ổn thỏa trước khi mặt trời lặn, để phù hợp với giáo huấn của Thánh Phaolo (Phi 4,26), nhưng lần này ngài ấy đã thất bại.
Trong thánh lễ ngày thứ ba, tới khi tôn vinh Mình Thánh, não ngài ấy nhảy số đưa ra một phương án vô cùng đặc sắc.
Ngài nâng cao Thánh Thể, quay hướng về phía mọi người, nhưng không trực tiếp đọc: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian”, ngài ấy hai mắt long lanh phát sáng, biểu cảm vô cùng nghiêm túc, dùng âm điệu trầm trọng: “Bỏ lại lễ vật của ngươi, trước tiên hãy đi làm hoà với người anh em”. Sau đó thong thả đọc “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian”, và phân phát Thánh Thể.
Có một ngày, tôi đang ở trong phòng thư ký giúp linh mục Lôi dọn dẹp giấy tờ, đột nhiên có hai huynh đệ mặt tràn nộ khí đi tới tìm linh mục Lôi, xin ngài ấy phân xử xung đột cho bọn họ.
Linh mục Lôi xưa nay luôn duy trì tinh thần đức ái của Chúa Kitô: “Trước hoà giải, sau lý luận”, liền nói với họ: “Anh em hãy bắt tay giảng hoà trước, sau đó các bên hãy đưa ra lý do”. Huynh đệ A nghe xong lập tức lộ ra nụ cười, đưa tay về hướng đối phương. Không ngờ huynh đệ B lại trừng mắt, gạt tay, hướng về phía linh mục Lôi nói: “Xin hãy phân xử cho chúng con trước, nếu con có lỗi, hãy xử phạt con, nếu anh ấy sai, hãy xử phạt anh ấy, bây giờ tạm thời không bắt tay”. Linh mục Lôi lập tức nghiêm khắc khiển trách anh ta: “Không phải môn đệ cha! Hoặc là bắt tay trước, hoặc là lập tức rời khỏi đây”. Huynh đệ B xưa nay cá tính quật cường, lại đang tức giận, liền quay người rời đi.
Linh mục lôi đã gặp một lão gia hỏa cứng đầu, nhưng ngài ấy không chán nản, tình yêu của Chúa Kitô thúc đẩy ngài ấy cứu vãn vị tu sỹ đáng thương này thoát khỏi ngục tù của giận dữ. Ngài ấy liền kêu tôi đi làm “Lỗ Trọng Liên” (thuyết khách). Tôi nhận lệnh nhanh chân đuổi theo tu sĩ B, kéo anh ta vào mật thất, tiến hành công việc thuyết phục. Tôi không có tài ăn nói như Tô Tần (Một chính khách thời Chiến Quốc), nên chỉ có thể dùng tình nghĩa ngày thường giữa tôi và huynh ấy, nặng nhẹ đủ cả, chật vật cả giờ đồng hồ, kết quả cũng có thể kéo anh ta tới phòng thư ký, khấu đầu tương hỗ, bắt tay làm hoà với tu sĩ A.
Linh mục Lôi ở bên cạnh đã cười. Ngài ấy để phá vỡ không khí lúng túng này đã hỏi chúng tôi: “Bây giờ ai là người vui nhất?” Tôi có ý rát vàng lên mặt tu sĩ B, liền cướp lời nói: “Đương nhiên là huynh đệ A rồi!” Ngài ấy nói: “Không! Người vui nhất là Chúa Giêsu”.
Mọi người chúng tôi đều cười vui vẻ.
HÔM NAY TÔI, NGÀY MAI BẠN
Trong cuộc sống của các thánh nhân, luôn luôn tồn tại một thứ mà người phàm thường không thể nắm bắt. Nói cách khác, bên trong họ luôn tồn tại một phần nào đó rất “Thần bí”. Phần thần bí này chính là tính cách anh hùng, khiến cho họ trở nên không tầm thường như hầu hết mọi người.
Linh mục Lôi là thánh nhân hay không, tôi không tuỳ tiện hấp tấp kết luận! Ngài ấy có đạt tới mức độ anh hùng hay không! Lịch sử tự có câu trả lời. Nhưng ngài ấy quả thực có cái phần khiến người khác không dễ thấu tỏ, đó là điều mà bất cứ ai đã gặp qua ngài ấy đều không thể phủ nhận. Vấn đề khác tạm chưa bàn đến, chỉ nguyên việc liên quan đến cái “Chết”, cái nhìn và biểu cảm của ngài ấy đã khiến cho kẻ phàm phu như tôi không làm sao có thể hiểu thấu.
Người bình thường, cả tôi nữa, đều sợ chết, cũng huý kị cái chết. Linh mục Lôi thì sao? Ngài ấy tuyệt không sợ chết, đó là điều mà tôi dám cả quyết. Ngài ấy có khi còn giống như đùa giỡn với “Tử thần” nữa. Cuộc sống trên chiến trường của ngài ấy có thể chứng thực điều đó. Bốn chữ Cổ ngữ Trung Quốc “視死如歸-coi thường cái chết, coi chết nhẹ tựa lông hồng” quả thực không đủ hình dung cái nhìn của ngài ấy với sự chết.
Trước đây, tôi đã viết, sau khi nhận được tin tức linh mục Dương bạo bệnh chết trên đường thi hành sứ vụ, linh mục Lôi đã sục sôi nghĩa khí, nói lớn: “Cái chết thật đẹp, cái chết thật thống khoái. Nguyện có một ngày cha cũng chết đi như vậy!”
Nhưng, cũng kỳ lạ thay, một linh mục Lôi mạnh mẽ như thế, nhưng khi đối diện với cái chết của bạn bè thân thiết, lại cũng có thể khóc tới nước mắt dàn giụa. Lâm huynh đệ, người đầu tiên của hội dòng qua đời, nhưng không chết ở Chân Phúc Viện An Quốc, mà qua đời ở bệnh viện trung ương Bắc Bình. Khi tin buồn này truyền tới tu viện chúng tôi, tình cảm nồng nhiệt của linh mục Lôi trào dâng, ngài ấy khóc tới nỗi “Thảm thiết nghẹn ngào”. Nhưng cũng với cái chết của một huynh đệ khác, ngài ấy không chỉ không rơi một giọt nước mắt, mà còn xử lý hậu sự cho vị tu sỹ này với biểu cảm quá đỗi lý trí, có thể nói là khô như ngói vậy!
Vĩ Liêm, Vị tu sĩ đầu tiên qua đời tại tu viện là một người tu sĩ gương mẫu. Linh mục Lôi với cái chết của vị tu sĩ này, mặc dù cũng khóc, cũng biểu lộ sự bi thương, nhưng thứ biểu lộ nhiều hơn cả lại là trí huệ và quyết tâm. Ngài ấy nhân cơ hội này dạy cho chúng tôi bài học thực tế nhất.
Ba ngày sau khi vị tu sĩ này qua đời, ngoài Thánh lễ truy điệu, cùng các nghi thức kính nhớ khác, trong phòng học của chúng tôi xuất hiện một biểu ngữ lớn: “Hôm nay tôi, ngày mai bạn!” Trên biểu ngữ còn vẽ một hình đầu lâu. Đây là phương pháp giáo dục rất mới mẻ. Chúng tôi nhìn thấy, mặc dù đều cảm thấy sợ hãi và đau buồn, nhưng thực tế, tấm biểu ngữ ấy lại nâng đỡ ý chí của chúng tôi hơn bất cứ đạo lý tốt đẹp khác.
Về sau, có anh bạn ngoại giáo đến tham quan tu viện, nhìn thấy biểu ngữ đáng ghét ấy, thì không khỏi cảm thấy “Rùng mình”, nhưng linh mục Lôi lại mặt mày hớn hở, nói: “Đó là biểu ngữ đẹp nhất trong tất cả biểu ngữ”.
GIỜ PHÚT KHÔNG NGỜ
Do sự qua đời của tu sĩ Vĩ Liêm, cuộc sống của chúng tôi cũng có không ít sự thay đổi. Linh mục Lôi nói, lợi ích mà cái chết của người anh em mang lại cho toàn thể tu viện không thua kém một cuộc tĩnh tâm mười ngày. Ngoài việc theo quy định, toàn hội dòng ba ngày liền hát kinh nhật tụng cầu hồn và cử hành thánh lễ cho người mới qua đời, linh mục Lôi còn lệnh cho chúng tôi đem áo dòng của người mới qua đời đặt trên ghế ăn, rồi lại treo một tấm vải đen to dài trên Cây Thánh Giá sừng sững giữa Tu Viện, khiến cho không khí của tu viện càng hiện rõ sự trang nghiêm bi ai.
Buổi tối hôm Vĩ Liêm huynh đệ qua đời, trong giờ “Lời cảm tưởng”, linh mục Lôi hướng dẫn chúng tôi mở một hội truy điệu không chính thức: tự do tường thuật những lời hay ý đẹp của người mới qua đời. Mọi người nói rất nhiều về những đức tính tốt của người anh em, có tu sĩ còn xúc động khóc không thành tiếng.
Trong tối hôm đó, có người nhắc tới một hành vi anh hùng công khai của người mới qua đời khi con sống, số là trong thời gian vị huynh đệ này lâm trọng bệnh, dường như mỗi buổi sáng đều từ trong phòng bệnh đi ra, tay vịn tường, bước từng bước chậm chạp tiến về thánh đường tham dự Thánh lễ. Linh mục Lôi mượn câu chuyện ấy nói với chúng tôi: “Người nào vì một chút trở ngại mà bỏ tham dự Thánh lễ, thì thật mỉa mai biết bao!”
Sau đó, tu sĩ hộ lý đã báo cáo một tin lạ trước khi vị tu sĩ kia qua đời, anh ta nói: bệnh của Vĩ Liêm huynh đệ là ung thư thực quản, một tháng gần đây không hề ăn gì, toàn bộ đều nhờ tiêm bổ sung dinh dưỡng để duy trì sự sống. Sáng nay, trước khi qua đời khoảng ba giờ, anh ấy đột nhiên cảm thấy đói, muốn ăn gì đó. Tôi thử cho anh ta một chén cháo xem sao. Thật kỳ lạ! Sau khi anh ta ăn xong lại cũng chẳng nôn mửa. Tôi cảm thấy rất thoải mái, niềm tin anh ta bình phục gia tăng, tôi cũng cho là bệnh tình của anh ta chuyển biến tốt. Nhưng ba giờ sau, thì đã vĩnh biệt thế giới này rồi.
Linh mục Lôi lại nói: tin tức này chẳng hề mới lạ, Giêsu hơn 1900 năm trước sớm đã nói qua: “Vào lúc anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến (Mt 24,44)”. Theo kinh nghiệm của không ít người, phần lớn là bệnh nhân, khi tự cảm thấy lâm trọng bệnh phải chết, thì không có chết; trái lại, phàm khi cảm thấy biến chuyển tốt, thì lại vĩnh biệt cuộc đời. Lời của Giêsu sẽ tồn tại mãi. Ngài ấy đã không nói lời này sao: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời của Ta tuyệt sẽ không qua đi (Mt, 24,35).
LỄ GIÁNG SINH VUI VẺ
Ngày 25/12 năm thứ 19 Dân Quốc, lễ Giáng Sinh đầu tiên sau khi tôi gia nhập hội dòng Gioan tẩy giả, thật có thể nói là một ngày vui nhất trong đời tôi. Ngày hôm đó, chúng tôi lần đầu tiên hát kinh nhật tụng đại lễ Giáng Sinh bằng tiếng mẹ đẻ (trước đây chỉ có đọc kinh nhật tụng lễ Đức Mẹ). Tất cả kinh sách nhật tụng, bao gồm cả đáp ca, bài đọc, xướng đáp, thánh vịnh,… toàn bộ đều hát, mà tất cả giai điệu đều là do linh mục Lôi căn cứ theo nhạc bình ca của Kinh văn La ngữ, thêm bớt tăng giảm điều chỉnh để thích ứng với tiếng Trung mà soạn thành. Không hiểu là vì tài năng âm nhạc của linh mục Lôi cao siêu, hay là vì tình yêu của ngài ấy với Thiên Chúa thấm nhập trong bài hát, mà sau một loạt những giờ kinh nối tiếp nhau, bắt đầu từ hát kinh nhật tụng, đến hát “Thánh lễ lúc nửa đêm”, lại hát kinh ca ngợi đến hai giờ sáng hôm sau, sau đó liền hát kinh nhật tụng giờ ba, nhưng Tinh thần của mọi người không những chẳng có chút dấu hiệu mệt mỏi, mà còn tăng lên gấp bội.
Ngày hôm đó, một sự việc khác cũng góp phần khiến chúng tôi vui vẻ không thôi, chuyện là những tu sỹ nòng cốt của hội dòng, lần đầu tiên phát nguyện khấn dòng. Đại lễ khấn lần đầu do giám mục Tôn Đức Trinh đích thân chủ trì trong thánh lễ Vọng Giáng Sinh, còn linh mục Lôi thì phụ trách nghi lễ và nhận lời khấn. Trong thánh lễ, không chỉ có lễ nghi trang nghiêm long trọng, mà ngôn từ trong thánh lễ cũng thân thiết động lòng người. Tất cả nghi thức và huấn từ đều là bút tích của linh mục Lôi.
Trong thánh lễ, mọi người tham dự trong nhà thờ đều hát “Kinh cầu các thánh” bằng tiếng Trung. Khi ấy, tám vị tu sĩ sắp khấn đều nằm rạp xuống đất, cầu nguyện cách cực kỳ khẩn thiết, họ xúc động nức nở sụt xịt, khóc mãi không thôi. Đặc biệt là người anh em “Đại Bằng thuần khiết” của chúng tôi, trước sau đều là cao giọng khóc lớn- khóc vì hạnh phúc.
Linh mục Lôi thì sao? Ngài ấy vốn là người giàu tình cảm, mà ở vào hoàn cảnh động lòng người như vậy, nước mắt dường như đều tập trung nơi khóe mắt, chờ trực tuôn ra. Ngài ấy tựa như đang tranh đấu, tích cực khống chế bản thân, khiến nước mắt chảy ngược, không để lộ ra ngoài.
BÍ MẬT CỦA TÌNH YÊU
Hai sự việc kể trên vẫn không phải là niềm vui lớn nhất trong Lễ Giáng Sinh năm đó, cao trào còn ở phía sau.
Hôm đó, sau đại lễ lúc hừng đông thì đồng hồ đã điểm chín giờ, bởi vì sau thánh lễ ban đêm có ăn khuya, nên sau thánh lễ đó, chúng tôi đều bỏ qua bữa sáng, lập tức tụ họp trò chuyện. Linh mục Lôi dùng thanh âm lanh lảnh hát: “Nhìn xem, anh em ở với nhau”. Mọi người đều đáp lại bằng âm thanh hùng tráng: “Thì vui biết nhường nào!” Tức khắc, tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô, tiếng cười nói,… vang lên ầm ĩ rối loạn cả một góc trời.
Đột nhiên, một trong những tu sĩ mới khấn (Phó viện trưởng) nâng tông giọng nói: “Xin mọi người im lặng chốc lát, tôi có lời quan trọng”. Thế là mọi người im lặng xuống.
“Hôm qua, sau thánh lễ, tám anh em mới khấn chúng tôi đã mở một cuộc họp bí mật, quyết định….” Anh ấy dường như rất xúc động, lại giống như có lời khó nói, dùng ánh mắt đảo khắp mọi người một lượt, tiếp tục nói: “Quyết định từ hôm nay trở đi, chúng tôi không gọi linh mục Lôi là ‘Linh mục công bộc’ nữa, chúng tôi gọi ngài ấy là cha”. Mọi người đều dùng tiếng pháo tay nhiệt liệt, biểu thị sự nhất trí.
Hai mắt linh mục Lôi ửng đỏ, nói: “Tôi mặc dù không xứng đáng, nhưng tôi tiếp nhận cách xưng hô này, vì tình yêu ẩn giấu trong cách xưng hô này”, nói đoạn, châu lệ đã tuôn ra. Ngài ấy không thể khống chế bản thân, dứt khoát để “Tình yêu” mượn nước mắt phát tiết.
Cách gọi “Cha” ở Chân Phúc Viện không phải bắt đầu từ hôm đó, mà đã được dùng từ lâu. Từ khi lập hội dòng đến bây giờ, hơn hai năm nay, linh mục Lôi hoàn toàn dùng “Chân thành” và “Tình yêu” đối đãi anh em tu sĩ. Ngài ấy đem tư tưởng và tinh thần của bản thân, đúng hơn là nói, ngài ấy đem tinh thần của Chúa Giêsu hoàn toàn giao phó cho các anh em tu sĩ, ngài ấy có khi rất nghiêm khắc với các anh em tu sĩ, trừng phạt rất nặng, nhưng người người —— ngay cả bản thân tu sĩ bị phạt, cũng nhìn ra, “Tình yêu” và “Sự chân thành” của ngài ấy ngay cả khi trách phạt người khác. Vậy nên, các tu sĩ dần dần gọi ngài ấy là “Cha”. Cách gọi này do ai khởi xướng, bất kỳ tu sĩ nào cũng không thể xác định, Chí ít cho tới khi tôi gia nhập hội dòng, mơ hồ đã nghe qua cách xưng hô này rồi. Trước đây là lác đác lẻ tẻ tự do, không hoàn toàn xưng hô như vậy. Nhưng từ hôm đó, đích thân “Người anh em công bộc” đã tuyên bố, liền trở thành “Quy luật bất thành văn”.
Hội dòng thành lập vốn theo tinh thần của Thánh Biển Đức, hội trưởng gọi chung là “Abba”, nghĩa là cha. Linh mục Lôi rất sùng kính Thánh Biển Đức, ngài ấy mong mỏi tinh thần của Thánh Biển Đức được thực hiện trong nhà dòng, ngài ấy trong luật dòng còn gọi Thánh Biển Đức là “Tổ phụ xa”. Ngài ấy cũng rất yêu mến cách xưng hô “Abba” và ý nghĩa mà nó tượng trưng. Nhưng căn cứ theo quy định của Giáo Luật, không thể tùy hứng sử dụng, vẫn lấy một chữ “Gia trưởng” thay thế cách gọi hội trưởng, còn ở trên môi miệng, ngài ấy vẫn nhượng bộ để anh em gọi ngài ấy là “Cha”.
Ngày hôm sau, linh mục Lôi nhận được một bức thư cả ngàn chữ lên đến năm trang của người bạn thân thiết, linh mục Lý Diệu Nhiên (Đang ở Chân Phúc Viện dưỡng bệnh), ngài ấy khiển trách linh mục Lôi đ để các huynh đệ gọi ngài ấy là “Cha”. Linh mục Lôi vốn tôn trọng linh mục Lý, trước đây, gặp việc quan trọng đều tiếp nhận ý kiến của linh mục Lý, nhưng lần này, ngài ấy đã không chấp nhận lời khuyến cáo của bạn hữu, ngài ấy đích thân đến phòng của linh mục Lý, chẳng có nhiều lời giải thích, chỉ nói với bạn ngài: đây là “Bí mật của tình yêu”.
GIAI CẤP TƯ BẢN
Tôi lần đầu tiên nghe thấy linh mục Lôi dùng từ “Giai cấp tư bản” thì có một số lơ mơ không hiểu. Đó là khi lên lớp Thánh Kinh, nói về việc Chúa Giêsu nói với một môn đệ: “Anh hãy theo Thầy, hãy để kẻ chết chôn kẻ chết (Mt 8,23)”. Linh mục Lôi giải thích: Chúa Giêsu không phải giai cấp tư bản, ngài ấy đối mặt với chân lý, ý chí kiên quyết, không lời lẽ ba phải, không uốn cong theo tư tình,…. Khi đó, tôi mặc dù không hoàn toàn hiểu rõ ý nghĩa đích thực của từ “Giai cấp tư bản”, nhưng từ sự lý giải của linh mục Lôi, tôi đã sơ sơ lãnh hội được hàm ý của nó, vậy nên cũng chẳng lập tức xin linh mục Lôi giải thích sâu hơn về nó. Về sau, bất luận khi giảng thuyết công khai, khi trò chuyện cá nhân, hay khi trò chuyện thân mật với bản thân người viết, linh mục Lôi đều lần lượt dùng chữ này để cảnh giác chúng tôi: đừng trở thành một “Giai cấp tư bản”.
Một ngày, ngài ấy trách mắng tôi: “Nhìn tác phong ‘Giai cấp tư bản’ của con xem!” — tôi thừa cơ xin ngài giải thích ý nghĩa của chữ này. Ngài ấy nói: “Giai cấp tư bản”, đây là chữ tiếng Pháp, “Bourgeois” vốn có nghĩa là người thành phố, nghĩa bóng của nó chỉ “Giai cấp tiểu tư sản”, sau này lại được giải thích là “Giai cấp nhàn rỗi”, kẻ phàm phu tục tử. Sau cùng để chỉ “Người mưu lợi cá nhân, tìm kím qua loa chân lý, bo bo giữ mình, ưa chuộng hưởng thụ”.
Mùa đông năm 21 Dân quốc, linh mục Lôi từ An Quốc Hà Bắc tới học viện triết thần Tuyên Hoá tỉnh Chahar, thăm đám tu sĩ chúng tôi đang học triết thần ở đó. Sau bữa cơm tối, bảy người tu sĩ chúng tôi ngồi vây quanh tứ phía linh mục Lôi trò chuyện. Không biết thế nào, vấn đề lại đưa đến việc “Ăn chay”. Có một vị tu sỹ— sau này đã rời khỏi hội dòng—ra sức phát biểu ý kiến của mình, “…Bất kể nói như thế, người có thể không làm việc, nhưng một ngày không thể không ăn cơm!” Linh mục Lôi lập tức ngắt lập luận tuyệt vời của thầy ấy, nói: “Người anh em, anh thật kém cỏi! Lời này thì tràn đầy tinh thần của ‘Giai cấp tư bản’! Thánh Tông Đồ Phaolo nói thế nào? Ngài ấy nói: Ai không làm việc, thì đừng có ăn”.
Vị tu sĩ đó cúi đầu trầm mặc, mọi người chúng tôi thì một phen cười ná thở. Linh mục Lôi nắm lấy cơ hội này, cho chúng tôi một buổi giáo huấn đơn giản mà sâu sắc. Ngài ấy nói: Cha không phủ nhận các nam nữ tu sỹ cũng có quyền “Ăn mặc, cư trú…” nhưng cha hy vọng anh em của cha phải có tinh thần của Chúa Giêsu và thánh Phaolo, việc hưởng dụng đời sống vật chất, đừng tự cho mình là “Có quyền lợi”. Chúng ta trong đời sống hiện thực, tinh thần cần phải nắm thế chủ động, “Tâm không làm nô lệ cho hình thức”.
Tôi ở bên nghe những lời này của linh mục Lôi, thì đã có sự hiểu biết sâu sắc hơn đối với chữ “Giai cấp tư bản”.
GIẢNG ĐẠO TRONG TÙ
“Chúng ta phải tìm công việc, đừng để công việc tìm chúng ta”, đây là thái độ làm việc cả đời của linh mục Lôi. Ngài ấy theo nguyên tắc công việc này, không lâu sau khi thành lập hội dòng, thì vận dụng các loại phương pháp, phái tu sĩ tới nhà tù huyện An Quốc giảng đạo.
Năm thứ 21 Dân Quốc, được sự đồng ý của ông Trương Ngưỡng Văn, huyện trưởng huyện An Quốc, cho phép các tu sĩ đi vào nhà tù giảng đạo. Khi ấy, trong tù, các phạm nhân bị án trên mười năm và chung thân, có khoảng 60 người. Các tu sĩ ngoài giảng đạo, còn hiệp trợ bọn họ tổ chức những nhà xưởng nhỏ: làm giày vải, dệt vớ len, bao tay,… thành phẩm công việc của họ nhờ các tu sĩ mang ra khỏi tù, ủy thác cho các thương nhân tiêu thụ. Lợi nhuận thu được, đối với cuộc sống sơ sài của tù nhân chẳng phải là vô ích. Linh mục Lôi cũng lần lượt tới các nhà tù, thăm viếng bạn hữu của ngài ấy, đương nhiên cũng mang đến cho họ không ít lương thực thiêng liêng.
Sau một năm, đã có khoảng một nửa, ước khoảng 30 người rửa tội. Sau này, ngày Chúa nhật, bản thân linh mục Lôi, có khi linh mục Nhị Lôi (Lôi Trấn Viễn) tới nhà tù cử hành thánh lễ. Sau này, ngài ấy còn thành lập “Hội công giáo tiến hành” cho bọn họ, do một tù nhân chung thân họ Liễu làm trưởng hội. Người này thông minh lanh lợi, viết lách không tệ, hùng biện khá tốt. Anh ta ở trong ngục hiệp trợ các tu sĩ thi hành không ít công việc truyền giáo.
Huyện trưởng Trương, huyện trưởng An Quốc là bạn hữu của linh mục Lôi. Vì vậy, Công việc truyền giáo trong tù rất dễ dàng triển khai, thành tích cũng không tệ, nhưng linh mục Lôi không vì thế mà thoả mãn, ngài ấy hy vọng công việc truyền giáo phát triển tới những nhà tù trong sáu huyện thuộc giáo phận An Quốc. Để hoàn thành mục tiêu này, ngài ấy đích thân tới tỉnh phủ Bảo Định, xin tướng quân Phùng Chí An, chủ tịch tỉnh Hà Bắc cho phép vào những nhà tù của Lục Trấn giảng đạo.
Trên đường qua tỉnh phủ Bảo Định, đã phát sinh một sự việc vừa nguy hiểm nhưng cũng không kém phần hài hước thú vị.
Tháng 11 năm thứ 24 Dân Quốc, một buổi chiều lạnh lẽo, sau khi linh mục Lôi được cấp phép tới nhà tù giảng đạo, vẫn như cũ đạp xe trở lại Chân Phúc Viện An Quốc. Đi được nửa đường, đột nhiên bên đường xuất hiện ba bóng đen, chỉ nghe hô to: “Ai vậy? Đứng lại! Đi đâu?”
Linh mục Lôi trong lòng hiểu rõ gặp ai rồi, vội dừng xe lại, rất điềm tĩnh nói: “Lôi Minh Viễn, tới cứu mọi người!”
Ba tên thổ phỉ như hoà vào trong bóng đêm, đáp: “Lời này của ngươi là có ý gì?” ——
“Tôi mới được Tỉnh Phủ cho phép có thể tự do tới nhà tù giảng đạo” linh mục Lôi ung dung giải thích.
Thổ phỉ nghe lời này, dở khóc dở cười, sau đó để linh mục Lôi đi qua. Nhất thời việc ấy đã chuyển thành giai thoại.
ĐI TRƯỚC THỜI ĐẠI
Như chúng ta đã biết, sự nghiệp một đời của linh mục Lôi, đa phần đều mang “Tính sáng tạo”. Những cái lớn nổi bật như vận động thành lập Giáo hội Địa phương, truyền bá Văn hoá (Báo Ích Thế), dùng xe đạp,… đều là những sáng kiến kinh người trong giáo hội Trung Quốc hơn 60 năm trước. Sau khi làm môn sinh của ngài ấy, tôi không những luôn luôn nghe ngài ấy giảng giải những điều “Đi trước thời đại”, mà tác phong sống của ngài ấy, ngay cả trong lời nói hay hành động, đều mang theo mùi vị “Cách tân”, thậm chí sự cách tân này còn đến từ cách dùng câu chữ của ngài ấy trong đời sống tu đức, như “Toàn hy sinh”, “Thật yêu người”, “Thường vui vẻ”, “Đánh ngã tôi”, “Chết cũng không thôi”,… Đều là những danh từ trước đây chưa từng có. Bây giờ tôi lại tường thuật những câu chuyện vụn vặt trong vài năm chung sống, để nói rõ một loạt những sự mới lạ trong phong cách tư duy tiến bộ của ngài ấy.
Lần nọ, linh mục Lôi hướng dẫn Hội Công Giáo Tiến Hành thảo luận về chuyên đề “Truyền giáo”. Có người nêu lên vấn đề: người ngoại giáo sau khi rửa tội gia nhập Giáo Hội, làm thế nào xử lý “Bài vị tổ tiên” được thờ phụng trong gia đình. Một vị truyền đạo viên có kinh nghiệm đắc ý đề xuất biện pháp giải quyết: “Đây là vấn đề đơn giản, chẻ ra đem đốt đi là xong rồi!” Mọi người vỗ tay cười phá lên. Linh mục Lôi lắc đầu, an nhiên nói: “Không nên như vậy, hãy nói họ kính cẩn đem bài vị cất đi, lưu làm kỷ niệm, chỉ cần không đốt hương cho bài vị thì có thể rồi”.
Nhà mẹ của hội dòng đặt tại đất An Quốc, cũng có một toà lễ đường của Anh giáo. Người chủ trì, Đổng mục sư là một trong những hảo bằng hữu của linh mục Lôi. Vị Đổng mục sư này thường đến tu viện của chúng tôi trò chuyện với linh mục Lôi, và cũng thường mượn đọc thư tịch của Công Giáo, chỉ là chưa có dấu hiệu cải giáo. Một nhà truyền giáo bình thường đương thời cho rằng, làm bạn với một mục sư dị giáo không có ý cải giáo là một chuyện không thể tưởng tượng. Nhưng linh mục Lôi với tuệ nhãn cao siêu, đã khai trước dòng tư tưởng của đại công đồng.
Khoảng 60 năm trước, linh mục Lôi đã bắt đầu dẫn dắt chúng tôi cử hành thánh lễ tiếng trung trá hình. Linh mục chủ tế đương nhiên vẫn là dùng tiếng La Tinh, nhưng có hai vị tu sĩ mặc áo Surplices, đứng ở phía trước bàn thờ, mắt hướng về cộng đoàn, tuyên đọc lời cầu, thánh ca, các thư và Phúc Âm,… tinh thần của công đồng Vaticano II đã sớm xuất hiện trên người linh mục Lôi hơn bốn mươi năm trước rồi.
Khi lần đầu tiên đảm nhận vai trò “Người đọc” những lời ấy, tôi không chỉ cảm thấy mới lạ, mà trong lòng còn trào dâng tràn đầy cái cảm giác hưng phấn, tôn kính, cao quý và muốn dấn bước học theo.
Những thứ khác như hát kinh đại nhật tụng tiếng Trung, dẫn dắt tu sĩ và giáo dân tới tiền tuyến cứu trợ thương binh, phái tu sĩ tới nhà tù giảng đạo, cá nhân linh mục Lôi thì nhập tịch Trung Quốc,… đều là những biểu hiện cho tinh thần “Đi trước thời đại” của ngài ấy. Ngài ấy nói: “Tư tưởng ngôn hành của chúng ta phải mới mẻ, phải hợp thời đại, …may mắn thay, cái mà thời đại hiện đại có lại phù hợp với cái mà dân tộc ta cần, đó chính là tinh thần của Phúc Âm.” (Điều 5 diễn giải luật dòng Gioan Tẩy Giả).
TINH THẦN TRIỆT ĐỂ
Người quen biết linh mục Lôi, đối với ngài ấy đều có một ấn tượng tương đối giống nhau: dáng người gầy gò, nhưng tinh thần thì cháy rực. Ngài ấy là “Cường nhân” bé nhỏ, ngài ấy đối mặt với chân lý bằng ý chí kiên quyết và tinh thần quán triệt. Trong lúc trò chuyện, những chữ so sánh nhất như: “Tuyệt đối”, “Trọn vẹn”, “Quyết không”, “Hoàn toàn”, “Chân chính”, “Luôn luôn”,… thường được Ngài ấy đặc biệt sử dụng rất nhiều. Ngài ấy không chỉ nói trên miệng, mà còn luôn hết mực hành động trong đời sống hằng ngày. Khi làm việc, khi kỷ luật bản thân, khi đối nhân, hay khi phụng sự Chúa cũng đều là dứt khoát giữ gìn chân lý, nói một không hai, không mập mờ nước đôi, không do dự qua loa, chẳng tính toán lợi hại cho bản thân. Ngài ấy trước sau đều nhắc nhở chúng tôi: tinh thần của Giêsu là tinh thần thấu triệt.
Khi bạn đặt chân vào cửa lớn của Chân Phúc Viện An Quốc, thứ đầu tiên đập vào mắt là một chữ “Chân” lớn, cao cả trượng. Ngài ấy mỗi lần đón tiếp người mới xin gia nhập hội dòng, nhất định phải hỏi: “Bạn có nhìn thấy chữ ‘Chân’ lớn ở cửa ra vào không?” Sau khi đợi người ấy gật đầu, ngài ấy liền nói với người mới xin gia nhập hội dòng: bạn phải lập trí làm tu sĩ “Thật”, làm người “Chân” thực hành tinh thần Phúc Âm.
“Toàn, Thật, Thường” trên miệng linh mục Lôi ban đầu chỉ là tóm tắt của “Toàn hi sinh, Thật yêu người và Thường vui vẻ”, sau này để nói rõ sự quan trọng của “Tinh thần triệt để”, phạm vi mà ngài ấy ứng dụng ba phó từ này càng ngày càng rộng, ví dụ: cố hết sức, thật khó nghèo, thường nhiệt tâm, không thay đổi trạng thái thường, thành Thánh “Thật”, chết hoàn toàn,… một chuỗi những từ “Triệt để”, trong diễn thuyết và lời nói của ngài ấy, không ngừng tuôn ra.
Khi tôi mới gia nhập hội dòng, linh mục Lôi trên bức tường phòng học của chúng tôi, đã đề ngang ba chữ lớn: “Đánh ngã tôi”, nghĩa là “Từ bỏ cá nhân”. Sau này, ngài ấy phát hiện có một số tu sĩ vĩnh khấn, làm sống dậy con người cũ, làm việc ích kỷ. Ngài ấy đã động não suy nghĩ phải thực thi tinh thần triệt để của mình một cách quyết liệt hơn nữa. Ngài ấy kêu tôi đem chữ “Ngã” đổi thành chữ “Chết”, “Đánh chết tôi” không để cho con người cũ trỗi dậy.
Trước đây, Gia Cát Lượng nói: “Cúc cung tận tuỵ, đến chết mới thôi”, khí khái này đã đủ hùng tráng rồi. Nhưng linh mục Lôi vẫn lấy làm chưa đủ triệt để, đổi thành “Đến chết không thôi”. Quán triệt tinh thần này khiến người khác đập bàn khen ngợi không thôi.
Ở Chân Phúc Viện An Quốc vẫn còn một biểu ngữ đặc biệt: “Tôi không muốn làm một người gà mờ” , chữ “Gà mờ” này là phương ngữ Hoa Bắc, ý nghĩa của nó là không hoàn trọn, không thấu triệt. Bản thân linh mục Lôi thường nói: “Nếu tôi có thể cố gắng 100% khí lực, tuyệt không xuất ra 99%”. Ngài ấy thường dùng phương ngữ Hoa Bắc giảng đạo: “Toàn bộ đều không đếm xỉa tới!” (không đếm xỉa tới cũng là thổ ngữ phương Bắc rất có trọng lượng, bây giờ cũng đã soạn vào Từ Điển Quốc Ngữ, trang 2303). Ý nghĩa của nó chỉ sự hi sinh từ bỏ, không quản thành bại, dũng cảm tiến về phía trước.
CÔNG VIỆC THIÊNG LIÊNG LÀ TRÊN HẾT
Linh mục Lôi thường nói: “Đời sống tu đức thiêng liêng mặc dù không hoàn toàn là cầu nguyện, nhưng chẳng chút nghi ngờ gì, cầu nguyện là cánh cửa chủ yếu của đời sống tu đức thiêng liêng. Ý nghĩa của cầu nguyện mặc dù cũng không hoàn toàn ở chỗ thực hành các công việc thiêng liêng, nhưng người xem nhẹ công việc thiêng liêng nhất định không thể trở thành người cầu nguyện”.
Ngài ấy lấy châm ngôn của Thánh Biển Đức: “Công việc thiêng liêng là trên hết”, để nhắc nhở chúng tôi xem trọng “Công việc thiêng liêng”, và trung thành thực hành công việc thiêng liêng mỗi ngày. Ngài ấy nói: Thánh Biển Đức không chỉ là một vị ẩn sĩ chỉ lo thân mình, thánh nhân và đệ tử đều là những nhân vật vĩ đại khai phá ra nền văn minh Thiên Chúa giáo phương Tây, họ không hề lấy công việc bộn bề làm lý do xem nhẹ công việc thiêng liêng. Trái lại, họ đem “Công việc thiêng liêng” đặt lên vị trí ưu tiên trong hoạt động thường ngày. Chúng ta mong mỏi lý tưởng của Thánh Biển Đức, rồi nguyện dùng cách thức ngài ấy khai phá ra văn hoá Kitô Âu Châu, để tham gia vận động phục hưng văn hóa nước nhà, tự thích ứng bắt chước ngài ấy, mà đem công việc thiêng liêng đặt vào vị trí bất khả xâm phạm.
Có người lấy danh ngôn của Thánh Vinh Sơn: “Đức ái cao hơn tất cả”, “Rời Chúa để được Chúa” (Rời xa Chúa trong công việc thiêng liêng, để rồi phục vụ Chúa trong công việc tay chân), để chất vấn linh mục Lôi, làm thế nào cân đối với quan niệm “Công việc thiêng liêng là trên hết”. Ngài ấy trả lời: “Công việc thiêng liêng là trên hết” và “Đức ái cao hơn tất cả”, hai câu này không chỉ không xung đột, mà còn bổ sung cho nhau, chỉ có người hiểu được tinh thần cầu nguyện, mới có thể thực hiện cách đúng đắn. Ý nghĩa thực sự trong câu này của Thánh Vinh Sơn là đang khi có công việc bác ái cấp bách phải làm, thì cho dù có đang làm công việc thiêng liêng đi nữa, con cũng nên tạm thời rời bỏ “Công việc thiêng liêng trên hình thức”, nội tâm vẫn không ngừng kết hợp với Thiên Chúa, đi làm công việc phục vụ tha nhân.
Nhưng, linh mục Lôi cảnh giác chúng tôi: “Tư tưởng của Thánh Vinh Sơn cực kỳ chính xác và cao siêu, người mà nguồn gốc tu đức không sâu, khó tránh khỏi nguy hiểm”. Thế là ngài ấy cảm thán nói: “Không ít người làm công việc của Thiên Chúa, đời sống của họ dần dần hình thành: luôn luôn rời Chúa ( công việc thiêng liêng) mà rất ít đạt tới Ngài”.
CON NGƯỜI CẦU NGUYỆN
Linh mục Lôi nói với chúng tôi, phải làm đến “Lợi người không hại mình” là thứ nền tảng tu đức cực sâu cần phải có, và cũng cần đem nuôi dưỡng nó trở thành một loại tinh thần “Cầu nguyện sinh động”. Ngài ấy gọi những người thực hành việc này là những con người của cầu nguyện.
Có môn sinh lấy bài tập nặng nề làm lí do, rất lâu không làm bất cứ công việc thiêng liêng gì; có giáo sĩ truyền giáo lấy việc xã giao tiếp khách hoặc thăm giáo dân để chối từ công việc thiêng liêng. Không đọc Kinh Phụng Vụ, thiếu suy niệm, quên đi việc đọc Kinh Thánh,… Đó là biểu hiện của sự thiếu vắng “Tinh thần cầu nguyện”. Linh mục Lôi hài hước nói với chúng tôi: người ta bất luận bận rộn đến đâu, cũng luôn có thời gian đi vệ sinh, cha không khuyên anh em lấy “Đi vệ sinh” làm lý do rời bỏ khách khứa để vào Nhà Thờ đọc kinh, nhưng cha khuyên anh em cúi đầu đọc Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng hoặc cầu nguyện trong lòng trên đường đi đến nhà vệ sinh.
Linh mục Lôi khuyên chúng tôi như vậy, ngài ấy còn lấy bản thân làm mẫu, thực hành “Giáo dục con người bằng hành động gương mẫu”. Theo kinh nghiệm mười năm ở bên cạnh ngài ấy của tôi, ngài ấy đối với việc cầu nguyện dường như có một sự say mê đặc biệt. Ngài ấy không chỉ không phân thời gian và không gian để có thể cầu nguyện, mà còn nghĩ ra nhiều cách thức khác nhau để có thể cầu nguyện mọi nơi mọi lúc.
Khi ngài ấy ở trong tu viện, mặc dù công việc rất nhiều, khách khứa như mây, nhưng khi cầu nguyện chung, rất ít khi phát hiện ngài ấy vắng mặt. Tới thời gian cầu nguyện, ngài ấy sẽ rất chủ động và khách khí cáo từ khách khứa.
Khi ngài ấy ra ngoài làm việc, tu sỹ “Đại Bằng” thường đồng hành với ngài, cũng là một nhân chứng sống làm chứng cho đời sống cầu nguyện liên lỉ của linh mục Lôi. Từ An Quốc đạp xe đạp đến Bắc Bình, trên đường đi, linh mục Lôi cầu nguyện bên đường năm sáu lần, tu sĩ “Đại Bằng” kể: có lần, kim bấm giờ chỉ chín giờ, linh mục Lôi rất tự nhiên dừng xe lại dưới một tán cây ven đường, lấy kinh nhật tụng ra đọc, đồng thời cũng ra hiệu cho tôi đọc Kinh mân côi. Tôi thành thật nói với ngài ấy: “Con sớm đã đem cả thảy kinh sách hôm nay đọc trong một lần”, linh mục Lôi dùng giọng điệu hài hước trách tôi: “Con đem ba bữa làm thành 1 lần ăn, có thể không?” Tôi không có lời nào để bào chữa, cúi đầu nhận tội. Linh mục Lôi lại đi vào nội tâm, bắt đầu trò chuyện với Thiên Chúa.
Linh mục Lôi đã từng kể cho chúng tôi: khi ngài ấy ở Thiên Tân, công việc truyền giáo rất bận, nhưng cũng vui mừng vì bản thân có nhiều bạn hữu mộ đạo. Nhưng ngài ấy nói: “Cha cũng không vì thế mà mà xem nhẹ công việc thiêng liêng mà mỗi ngày Cha phải làm. Ngoài ra, mười giờ mỗi đêm, Cha nhất định phải khéo léo từ chối tất cả khách thăm và bạn hữu mộ đạo, sau đó, quỳ xuống trước Thánh Thể, thổ lộ với Giêsu tất cả những hài lòng và khó khăn trong một ngày qua. Đó là thời khắc vui vẻ nhất trong một ngày của Cha”.
Cuộc đời của linh mục Lôi vẫn còn một thói quen bí mật, nhưng bí mật này dần dần bị chúng tôi phát hiện, ngài ấy mỗi nửa đêm đều dậy cầu nguyện, không chỉ ở Chân Phúc Viện An Quốc, nhiều lần thấy ngài ấy tay cầm “Đèn dầu” đi vào nhà nguyện (đương thời huyện An Quốc vẫn chưa có đèn điện). Trong thời chiến tranh, tiền tuyến công việc cấp bách, ngài ấy cũng thường nửa đêm tỉnh dậy, đọc kinh dưới ánh đèn dầu. Linh mục Lôi thực sự xứng đáng gọi là “Con người của cầu nguyện”.
MỘT KHỐI TINH THẦN
Những người lần đầu tiên gặp linh mục Lôi dường như chẳng có một ngoại lệ, đều cảm thấy linh mục Lôi “Minh Viễn” chứ không phải “Minh Gần”: thân hình bé nhỏ, dáng người thấp thấp, ăn mặc giản đơn, tướng mạo chẳng kinh người. Ngài ấy thường nói đùa với bạn bè: “Khi tôi ra ngoài, một túi xách nhỏ đựng đồ đạc, trong đó gồm một quyển sách kinh, một cuốn nhật ký, một quyển Tứ Thư bỏ túi, một cây bút, một hộp gỗ cứng, một khăn mặt, một bàn chải răng, cộng thêm tôi nữa, ấy mà tổng cộng chưa đến 50kg”.
Tôi vào Chân Phúc Viện không lâu, có hai vị bạn học tóc để chỏm cũng đến xin nhập hội. Khi tôi đưa họ đi gặp linh mục Lôi, chỉ nói là đi xem “Linh mục công bộc”. Linh mục Lôi vì đang xử lý việc quan trọng, chỉ nói mấy câu cổ vũ hai người họ, liền kêu tôi đưa họ đi uống trà. Họ đột nhiên hỏi tôi: “Phải mất bao nhiêu năm mới có thể gặp linh mục Lôi vậy?” Câu hỏi này khiến tôi dở khóc dở cười. Tôi đang kìm chế những xung động trong nội tâm, nói với họ “Công bộc” chính là linh mục Lôi, họ dường như giật nảy người: “Có nằm mơ cũng không thể nghĩ ra linh mục Lôi thấp như vậy!”
Nhưng, đợi khi bạn ngồi đối diện với ngài ấy, khi cái máy nói của ngài ấy được bật lên, hai mắt long lanh phát ra chính khí bức người, nhưng nụ cười lại tràn lan khắp mặt, nói chuyện một cách thao thao bất tuyệt, thì ấn tượng của bạn đối với ngài ấy lập tức sẽ quay ngoắt 180 độ: ngài ấy vốn dĩ là nhân vật có tinh thần quắc thước và cá tính nhiệt huyết. Tôi theo ngài ấy mười năm, nghe ngài ấy giảng đạo công khai cả hơn trăm lần, kinh qua hàng vô số lần trò chuyện cá nhân, mỗi lần đều cảm thấy tinh thần phấn chấn, tâm tình rộng mở. Có khi, tôi nhớ lại nội dung ngài nói chuyện hoặc xem lại bút ký diễn thuyết của ngài, tôi tìm không ra bất kỳ lý luận cao sâu hay lời lẽ cảm động lòng người nào, nhưng chỉ một giây trong hồi ức của tôi, tôi vẫn là cảm thấy động tâm. Tôi nghiên cứu rồi lại nghiên cứu, tôi nhận ra, thứ khiến tôi cảm động không phải là ngôn từ của ngài ấy, mà là tinh thần của ngài ấy, là sự chân thành trong toàn bộ đời sống của ngài ấy.
Linh mục Lôi không chỉ sở hữu tinh thần sôi nổi, đối nhân nhiệt thành, công việc nhiệt tâm, mà còn muốn đệ tử của ngài cũng đều trở thành những người “Có tinh thần sung mãn”. Ngài ấy thường bảo: sứ mạng của chúng ta là sứ mạng tinh thần, nếu không có cái tinh thần kiên nghị trác tuyệt, sẽ không đủ ứng phó với nhu cầu của thời đại, trước những thanh niên ngoại giáo khí thế ngút trời, cũng không thể đại diện cho phẩm cách của Kitô hữu.
Sau đó không lâu, trên bức tường phòng tự học ở Chân Phúc Viện An Quốc, đối diện với chỗ ngồi của các tu sĩ, đã xuất hiện một bức biểu ngữ cỡ lớn: “Thánh nhân là gì? — một khối tinh thần” Ngài ấy giải thích: “Mọi hoạt động của con người, kể cả công việc nội tâm, bản thân nó chẳng quan trọng, thứ quan trọng là làm thế nào biểu tả sự trung thành với Thiên Chúa”. Ngài ấy lại nói: “Khác biệt của thánh nhân và người phàm không ở tại dấn thân làm công việc gì, mà hoàn toàn nằm ở việc có thể lột tả ra tinh thần trung tín với Thiên Chúa hay không?”
Lần đầu tiên chữ này “Một khối tinh thần” do linh mục Lôi nói ra, dường như là trong lễ kính thánh Têrêsa hài đồng Giêsu, ngày 3 tháng 10 năm 20 Dân Quốc. Trong bài giảng của thánh lễ, khi ngài nói tới thánh nữ làm thế nào yêu mến Giêsu, đột nhiên nói ra chữ này. Về sau, ngài ấy dùng chữ này để hình dung chữ “Nhiệt tâm”. Ngài ấy nói: “Một khối tinh thần chính là thái độ luôn luôn thể hiện sự mau mắn và sinh động của linh hồn đối với việc phụng sự Thiên Chúa”.
THÁNH PHANXICÔ ASSISI TẠI THẾ
Linh mục Lý Nghiêu Nhiên trong thời gian ở tu viện chúng tôi dưỡng bệnh, nhiều lần nhắc nhở chúng tôi: linh mục Lôi giống như một ngọn đèn sáng, ngài ấy tới nơi nào, mọi người đều vồ lấy ngài ấy giống như thiêu thân lao vào ánh đèn vậy. Huyện An Quốc bé nhỏ, hoang vu hẻo lánh, cát nhiều hơn đất, giao thông cực bất tiện; ấy vậy mà, từ khi linh mục Lôi đến nơi này, An Quốc đột nhiên trở thành thành phố nổi tiếng thế giới. Người nổi tiếng của Giáo Hội, người tài đức của xã hội, các lãnh đạo tôn giáo (mục sư, phương trượng,…nổi tiếng), phần tử trí thức, nhà báo quốc tế, thậm chí là nhiều nhân sĩ quốc tế,… đều chẳng cứ ngàn dặm xa xôi mà đến gặp linh mục Lôi.
Theo tôi thấy, lời phê bình này của linh mục Lý một chút cũng chẳng quá đáng.
Trong tất cả các quan khách có một vị tên Rev. Fr. King, mọi người đều gọi anh ta là linh mục Vương. Anh ta đã ở lại tu viện của chúng tôi ba ngày, rồi mới trở về Mỹ. Anh ta phát biểu trên tạp chí một bài viết đại loại là “Ký thực tham quan Chân Phúc Viện”. Đề báo là “Phanxicô Asisi Tại Thế”? Tôi đã không còn nhớ nữa, nhưng lời nhận xét trọng tâm của bài báo đích xác là như này. Ở đây chỉ dẫn ra một đoạn đại ý, đáng tiếc là nguyên văn đã không còn trong tay.
“… Các tu sỹ đều gọi linh mục Lôi là cha, gọi nhau là anh em, đời sống của họ thật giản đơn, phong thái cũng rất thuần phát, giống như Thánh Phanxicô Asisi và anh em của ngài ấy vậy. Tôi ngưỡng mộ nhất biểu hiện của họ khi giải khuây. Sau khi dùng cơm xong, linh mục Lôi xướng một câu: “Nhìn xem anh em ở cùng”, mọi người hưởng ứng đáp: “Thì vui vẻ biết bao”, lời vừa dứt, cả Hội Dòng lập tức sôi động cả lên, người hát, người cười, người thổi sáo, người đánh đàn, người tụm năm tụm ba, người vừa đi bộ vừa nói chuyện,… Nhưng thứ khiến tôi kinh ngạc nhất là họ không xem linh mục Lôi thành bậc thầy cao quý “Không thể chạm tới”, họ vây quanh ngài ấy, hỏi to hỏi nhỏ, hỏi ngắn hỏi dài, có thanh niên trẻ còn không ngừng níu góc áo của linh mục Lôi, giống như đang đùa vui với ngài ấy,…
“Sau khi việc tụ tập sau bữa tối kết thúc, họ đều tới dưới ngọn núi giả ở giữa trung tâm tu viện, mọi người ngồi quanh tứ phía của linh mục Lôi, lần lượt nêu lên những cảm nghĩ cá nhân trong một ngày đã qua, thuật ngữ của họ gọi là “Lời cảm tưởng”. Linh mục Lôi ngồi trên chiếc ghế được chuẩn bị đặc biệt bên cạnh cây thánh giá ở trung tâm, các tu sĩ ngồi xung quanh như gạch bao quanh núi. Thứ khiến tôi đặc biệt cảm thấy hứng thú là nhìn thấy không ít tu sĩ trẻ không ngồi bao quanh, nhưng tranh chỗ gần linh mục Lôi mà ngồi. Có người đến chậm một bước, thì tìm cách len lỏi vào chỗ trống, để được ngồi gần linh mục Lôi nhất có thể; nhưng thứ khiến tôi ngạc nhiên và cảm thấy thích thú hơn cả là hình ảnh một vị tu sĩ trạc tuổi linh mục Lôi (Nhược Kính huynh đệ) cũng góp vui tranh đua với các tu sĩ trẻ. Thái độ tự nhiên ấy, biểu cảm chất phác ấy khiến tôi cảm khái không thôi”.
ĐAM MÊ KHỔ HẠNH
Linh mục Lôi cả đời làm việc chăm chỉ, đối với “Khổ hạnh” có một sự ghiền không thể kháng cự, giống như sâu rượu đối với rượu vậy. Khi vào tháng chay tịnh, ngoài thứ sáu hàng tuần theo quy định của giáo hội Trung Quốc, ngài ấy cho phép các tu sỹ, cũng khuyến khích họ mỗi tuần tăng thêm hai lần giữ chay, còn bản thân ngài lại muốn theo luật công của giáo hội, giữ chay mọi ngày trong suốt mùa chay. “Huynh đệ công bộc” (Phó Viện trưởng) và các viên chức cao cấp đã liên hợp lại, xin linh mục Lôi vì lợi ích của tu hội mới lập, phải giữ gìn sức khỏe, đừng giữ chay mỗi ngày.
Linh mục Lôi có kỹ thuật bảo dưỡng thân thể, ngài ấy nói: “Một tu sĩ có thánh đức có thể khiến tôi sống hơn 10 năm….” Ngài ấy cự tuyệt chấp nhận kiến nghị “Dừng giữ chay mỗi ngày”. Phó Viện trưởng liền đem việc này trình báo Giám mục Tôn Đức Chân.
Ba ngày sau, giám mục Tôn gọi linh mục Lôi tới Toà giám mục, nghiêm cấm ngài ấy giữ chay mỗi ngày, chỉ chuẩn cho ngài ấy và các tu sĩ một tuần ba lần ăn chay mà thôi. Giống như người nghiện thuốc phiện luôn có cách tìm ra cơ hội để hút thuốc, linh mục Lôi cũng thế, ngài ấy cũng rất nhanh đã tìm thấy nhiều lý do khác nhau để giữ đại chay. Chủ Nhật Lễ Lá sắp tới rồi, ngài ấy động não nghĩ suy, tuyên bố với chúng tôi: “Từ thứ hai tuần Thánh tới lễ Chúa chịu nạn, liền năm ngày cho phép các anh em giữ đại chay mỗi ngày, và để biểu lộ sự phân ưu của chúng ta với cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta, trong năm ngày không tập trung, nghiêm giữ thinh lặng”. Như vậy, linh mục Lôi cuối cùng cũng tạm thỏa mãn niềm đam mê “Khổ hạnh”.
Sau cuộc nổi dậy chống Nhật “Thất thất”, linh mục Lôi dẫn dắt hàng chục tu sĩ và hàng trăm giáo dân tới tiền tuyến cứu thương. Hai mươi bảy năm nghiêm ngặt giữ chay bắt đầu, ngài ấy lại “Làm theo ý mình”, mỗi ngày đều giữ đại chay. Tôi đã lấy lệnh cấm của giám mục Tôn can ngăn ngài ấy, nhưng ngài ấy khéo léo trả lời: “Giám mục Tôn đã từ chức rồi, giám mục đại diện Vương vẫn chưa nhắc lại lệnh cấm này, cha hiện tại có thể tự do giữ chay rồi!”. Đương thời giáo phận An Quốc vẫn nằm trong vòng kìm kẹp của nhiều thế lực khác nhau, nhất thời rất khó liên lạc được với giám mục đại diện, nên chỉ đành để linh mục Lôi thỏa mãn “Chứng nghiện giữ chay của ngài ấy”.
Một ngày nọ, kỳ tích đã xảy ra. Đó là một sáng sớm thứ sáu, khi ngài ấy phải rời bệnh viện dã chiến ở trấn Đại Hữu, huyện Vũ Hương, để trở lại trụ sở đội cứu thương ở huyện Tương Viên, Ngài ấy nói tu sĩ đồng hành (tu sĩ Lỗ Tư) phải ăn cho no, để có sức mà leo khoảng 80km đường núi, nhưng bản thân ngài ấy thì một hạt cơm cũng không động đến. Buổi trưa, khi tới một thôn trấn nghỉ ngơi, ngài bắt bạn đường phải ăn cơm, còn bản thân ngài thì vẫn bụng rỗng leo núi.
Khoảng bốn giờ chiều, khi ấy tôi còn đang ở trong trụ sở phân phối cáng cứu thương, từ xa trông thấy linh mục Lôi với gương mặt tái nhợt đang mệt mỏi lê từng bước trở lại nơi đóng quân, tôi vội màng bước đến trước chào hỏi. Linh mục Lôi chẳng nói chẳng rằng, chỉ dùng tay ra dấu “Muốn ăn cơm”. Liền sau đó, Tu sĩ Lỗ Tư đem câu chuyện trên kể cho tôi, vừa đúng lúc huynh trưởng Phaolo cũng đang ở đấy, anh ấy lập tức lấy nửa cân mứt hồng và kêu đầu bếp dọn cơm lên cho ngài ấy. Sau ba mươi phút, nửa cân mứt hồng đã không cánh mà bay, cơm canh cũng chỉ còn lại một chú ít.
Tôi rất thẳng thắn đưa ra lời khuyên ngăn linh mục Lôi: cha à! Giáo Hội không có quy định giữ chay như vậy! Giữ chay không phải quy định duy nhất để thành toàn giáo hội. thân thể của cha đã quá kiệt sức rồi! Đó chính là mục đích của giữ chay sao? Vừa rồi cha đã đói đến nỗi nói không ra lời, như vậy có ngăn cản công việc không!
Linh mục lôi chỉ đáp lại: Ai nói như vậy nào? Con đi tập hợp các anh em, cha muốn giảng Thánh kinh.
Mười lăm phút sau, mọi người đều đến, linh mục Lôi tinh thần sung mãn, giọng giống như chuông, vang vang giảng Tin Mừng.
KHÔNG KHÍ THẦN THIÊNG CỦA TUẦN THÁNH
Lễ nghi của Tuần Thánh vốn dĩ đã rất trang nghiêm, nhưng dưới sự điều khiển và soạn thảo của linh mục Lôi, không khí tuần thánh năm ấy lại càng khiến cho người tham dự xúc động không ngớt. Ngài ấy ngoài việc gia tăng số lần giữ chay cũng như quy định nghiêm giữ thinh lặng, lại còn nỗ lực cải biên những bản nhạc Kinh Nhật Tụng, khiến cho không khí Tuần Thánh của tu viện chúng tôi trở nên vô cùng bi tráng và động lòng người.
Linh mục Lôi dĩ nhiên có tài năng âm nhạc, lại càng có hàm dưỡng tu đức và tình cảm chân thành, những khúc ca kinh nhật tụng “Tam Nhật Thánh” mà ngài ấy soạn thảo, chữ chữ đều động lòng người, đặc biệt là lời bi thương của Ngôn Sứ Giêrêmia, ngài ấy kết hợp âm điệu cực trầm thấp và bi thương, mỗi đoạn đều kết thúc với câu “Giêrusalem, Giêrusalem, hãy quay lại với Thiên Chúa của người đi!”
Sự bi tráng của giai điệu và tình ý trong những câu từ khiến nước mắt chúng tôi chảy ra không lý do. Khó trách sau “Tam Nhật Thánh”, đã hát vang “Alleluia” rồi, nhưng những khi tập trung lại vẫn có người lại khẽ ngâm nga những bài thánh ca bi ai đó. Vì vậy, sự sâu sắc cảm động lòng người của nó có thể nhìn thấy rõ ràng.
Kinh nhật tụng của “Tam Nhật Thánh”, không chỉ có giai điệu êm tai, mà nghi thức cử hành cũng vô cùng cảm động. Linh mục Lôi vẫn theo thói quen cổ, lệnh cho chúng tôi làm cái giá ba chân để bố trí 13 cây nến, đặt ở trung tâm nơi “Hát Thánh Vịnh”. Khi hát kinh đêm, mỗi khi đọc xong một Thánh Vịnh, thì dập tắt một cây, lần lượt thổi tắt 12 cây, điều này tượng trưng cho việc “Bỏ Chúa tháo chạy” của các tông đồ.
Đọc xong kinh tối, tất cả đèn trong thánh đường đều được dập tắt, chủ tế đem cây nến chưa bị dập tắt trên giá ba chân, di chuyển tới phía sau bàn thờ, điều này tượng trưng cho cái xác không còn sức sống của Chúa Giêsu. Đồng thời, tu sĩ khắp nhà thờ lấy tay dùng lực đập vào ghế quỳ khoảng mười phút, tượng trưng cho “Trời đất chấn động, đất đá nổ tung” sau khi Chúa chết. Tôi lúc đó thật sự cảm thấy toàn thân căng cứng, hô hấp tắc nghẹn, nín thở trầm ngâm, giống như đợi chờ đại nạn nào đó giáng xuống đầu.
Viếng Thánh Thể đêm Thứ Năm Tuần Thánh tại Toà Giám Mục (canh Mộ Thánh), cả đêm hôm ấy đều do tu sĩ của bổn hội lần lượt đảm nhiệm, nhưng linh mục Lôi và một số tu sĩ đặc biệt thành kính, cả đêm không ngủ, cùng ở lại thánh đường, canh giữ mộ Thánh.
SỰ CHÂN THÀNH NGU NGỐC ĐÁNG YÊU
Khoảng năm mươi, sáu mươi năm trước, trong phạm vi Giáo Hội Trung Hoa ở tỉnh Hà Bắc, lưu truyền một câu chuyện hài hước như thế này: trong Giáo Hội Trung Quốc (chí ít là ở tỉnh Hà Bắc) có một người rưỡi điên: điên toàn phần là Lôi Minh Viễn, điên một nửa là giám mục Văn Quý Tân, nếu Trung Quốc có thể có ba người điên như thế, thì Giáo Hội Trung Quốc nhất định đã rực rỡ gấp bội rồi.
Đương nhiên, đây chỉ là một câu chuyện hài hước, nhưng tính chân thực và đích xác trên thực tế của nó, rốt cuộc có bao nhiêu phần nặng nhẹ, tôi không dám cuồng ngôn hấp tấp biện luận, nhưng thứ tôi giám xác quyết là linh mục Lôi kỳ thực là một người đàn ông trung thực “Chân thành đến ngu ngốc”. Câu chuyện “Chân thành đến ngu ngốc” cả đời ngài ấy có thể dùng chữ “Đếm không kể siết” để hình dung, mỗi người quen biết ngài ấy đều có thể kể ra vài câu chuyện.
Người sáng lập hội dòng chúng tôi, trên lý thuyết được Toà Thánh công bố là giám mục Tôn Đức Trấn, nhưng trên thực tế lạilà linh mục Lôi Minh Viễn, đó là sự thật mà tất cả mọi người đều biết. Vậy nên, một tu sĩ điên (linh mục Lôi) huấn luyện, đương nhiên là sẽ không thông minh rồi. Vì thế, trong phạm vi Giáo Hội lúc ấy tại đất này, hội dòng chúng tôi có một bí danh, gọi là “Hội những kẻ ngốc”.
Tôi lúc ấy vẫn là một thanh niên 18 tuổi rất chăm chú danh vọng và mặt mũi. Vì thế, khi lần đầu vô tình nghe người ta thêm bí danh này cho hội dòng, tôi ôm sự bực tức trở về và trực tiếp kêu ca với linh mục Lôi. Ông già ấy sau khi nghe đã cười lớn, lại còn cười một cách ngọt ngào, ngài ấy nói: “Con à, ta chỉ nghi ngờ độ điên của ta cách Giêsu quá xa, ta chỉ sợ các con vẫn chưa bước vào cửa “Điên dại”. Bây giờ lại có người gọi con là “Kẻ ngốc”, như vậy quá tốt rồi, con xứng đáng là đệ tử của ta.” Mấy lời này của linh mục Lôi khiến tôi dở khóc dở cười, bản thân rất muốn trốn khỏi hiện trường vô cùng lúng túng này, nhưng lại ngại vô lễ với linh mục Lôi, nên chỉ biết đứng chết chân tại đó như “Tượng gỗ”.
“Con à” linh mục Lôi tiếp tục nói: “Cổ nhân nước ta không phải đã từng nói qua ‘Đại trí giả ngốc, khó hồ đồ” sao? E rằng con hiện tại vẫn chưa thể hoàn toàn lĩnh ngộ lẽ đạo triết học này. Sau này, con sẽ hiểu rõ. Lại xem, hành động cả đời của Chúa Giêsu, ai điên dại bằng? Tông đồ Phaolo không phải cũng vui mừng vì bản thân đã trở nên “Kẻ điên dại” ư? Xã hội sau cùng vẫn cần “Những kẻ điên dại”, để chống đỡ cho nó một chút. Nếu người người đi theo trào lưu thế tục, bo bo giữ mình, mà lại không làm việc nên làm, thì nhân loại xã hội sớm đã không tồn tại rồi”.
Tôi cười: “Cảm ơn Cha! Con đã học xong bài tu đức mới rồi”.
SỢ BỊ LỪA MÃI KHÔNG BIẾT YÊU NGƯỜI
“Vừa minh vừa triết, mà bảo vệ thân” (thơ: Đại Nhã)
Linh mục Lôi nói, ngài ấy rất tán thưởng ý nghĩa ban đầu của lời nói này, nhưng không đồng ý thái độ xử thế của những người bình thường quá ư “Bo bo thủ thân”.
Không dưới một lần, khi có người mượn tiền ngài ấy, hoặc ủy thác, nhờ vả ngài ấy giúp xử lí công việc, tôi đều nhắc nhở ngài ấy: “Hãy lưu tâm kẻo bị lừa”. Ngài ấy luôn dùng lời Kinh Thánh trách tôi: “Đừng xét đoán người khác (Mt 7,1)”. Lần kia, phát hiện ngài ấy thực sự bị lừa rồi, tôi kiểu “Vàng không sợ lửa” hướng về ngài ấy thể hiện rằng “Tôi đã biết trước sẽ như vậy mà”. Ngài ấy vuốt vuốt “Mái tóc chữ bát”, cười nói: “Tuổi của con chỉ bằng một phần ba tuổi ta, lẽ nào ta không có kinh nghiệm này? Tôi đã nghe không biết bao nhiêu lần lời cảnh báo “Coi chừng bị lừa” rồi?…….”
— Vậy thì, lần này tại sao lại bị lừa?
— “Sợ bị lừa, mãi mãi không thể thực hành đức ái” ngài ấy dùng câu này của Thánh Phanxicô Salêsiô khiến tôi ngậm miệng không thốt nên lời.
Giữa tháng mười năm thứ 20 Dân Quốc, một buổi trưa gió bắc lạnh cóng, có năm người “Quần áo mỏng manh co rúm, mặt mày hốc hác, có vẻ đói” đến phòng làm việc của linh mục Lôi, ba trong số đó là những vị trưởng thôn, hai vị còn lại là nhân sĩ địa phương. Ông Dương Văn Bân, người học rộng hiểu sâu, đại diện phát biểu, nói vắn tắt chuyện vùng Cao Dương nước ngập khắp nơi, mùa thu năm nay, không thu hoạch được bất cứ thứ gì. Ba thôn ở Đề Khẩu là những nơi bị nạn trầm trọng nhất, gần vạn dân cư bị đói rét đầy đọa, nếu không có biện pháp cứu tế, e rằng khó qua khỏi mùa đông, nên muốn cậy nhờ lòng bác ái và sự quen biết rộng khắp của linh mục Lôi, thay chúng tôi kêu gọi các cá nhân và tổ chức từ thiện, ra tay cứu trợ. Nói đoạn, thì đưa cho linh mục Lôi một tờ giấy “Báo cáo tình hình thiên tai”. Sau cùng, anh ta còn nói rõ, nếu có thể cứu tế kinh qua nạn này, chúng tôi đều muốn gia nhập Thiên Chúa giáo.
Tôi rất bất ngờ khi nghe linh mục Lôi trả lời: “Mọi người theo hay không theo đạo này là một chuyện khác. Phần tôi, tôi sẽ nỗ lực hiệp trợ mọi người bình an qua mùa đông, mười ngày sau sẽ có tin tức tốt lành rồi!”.
Sau khi họ đi rồi, tôi hỏi linh mục Lôi, tại sao lại không nhân cơ hội này khiến những người đó gia nhập Giáo Hội? Linh mục Lôi lại cười nói: “Đại khái con lại cho rằng, ta lại làm việc điên dại” phải không? Cứu người chính là để cứu người vậy, nên phải biểu hiện thành ý cứu người, đừng kèm theo điều kiện gì. Gia nhập Giáo Hội là chuyện tốt, nhưng nếu làm vì điều kiện nhập giáo, khả năng sẽ phát sinh những hậu quả khôn lường.
Năm ngày sau, đồ quyên góp ở khắp nơi ào ào chuyển tới. Về phía cá nhân, có Đặng Thụ Đình ở Bình Tân, Ngụy Phi Trị, Tôn Tử Thọ, bạn đồng nghiệp “Báo Ích Thế”, Lục Bá Hồng ở Thượng Hải,… tất cả các khoản quyên góp của những người trên đều đã được chuyển tới; về phía các đoàn từ thiện, chỉ riêng đơn vị từ thiện Hoa Dương đã chuyển tới 2000 đồng bạc. Nạn nhân thiên tai trong khu vực Đề khẩu, Cao Dương có thể an nhiên đi qua mùa đông lạnh.
Một tháng sau, kỳ tích xuất hiện: Ông Dương Văn Bân dẫn hơn mười người đến gặp linh mục Lôi, khẩn xin sai phái tu sĩ đến thôn Vệ Nguyên, Đề Khẩu thành lập các lớp dạy giáo lý, bọn họ nguyện ý học hỏi giáo lý gia nhập Giáo Hội. Linh mục Lôi mặc dù nói mục đích cứu tế không phải để bắt buộc mọi người theo đạo. Nhưng bọn họ lại nói, vì cảm ứng sự vĩ đại trong tinh thần yêu người của Giáo Hội, bọn họ tự động nguyện ý học hỏi giáo lý.
Linh mục Lôi nhìn sự thành tâm mộ đạo của họ, và được sự đồng ý của giám mục Tôn, ngài ấy phái hơn mười tu sĩ Hội Dòng và hàng chục nữ tu Dòng Tiểu Muội Têrêsa, do tu huynh Khai Chi— hiệu gọi tu sĩ chánh xứ Đề Khẩu— lãnh đạo, phân chia thành chín lớp huấn luyện giáo lý nhi đồng, nam nữ.
Sau hơn năm tháng, ngày mười chín tháng ba năm hai mươi mốt Dân Quốc, lễ kính Thánh Giuse, đã có hơn 2000 người lãnh nhận Phép Rửa. Từ đó, Đề Khẩu trở thành Giáo Xứ mới, giám mục Tôn phái linh mục Thường Châu về coi sóc.
Qua đi năm năm, cuộc kháng chiến chống Nhật “thất thất” nổ ra, linh mục Lôi đã tổ chức đội cứu binh hơn 300 giáo dân, một phần ba trong số này, khoảng 120 người (trung đội thứ 2) đều là giáo dân nam của Đề Khẩu tổ chức thành.
TẤM LÒNG SON
Trước đây, khi tôi vẫn chưa nhìn thấy linh mục Lôi, Lôi Minh Viễn trong truyền thuyết là một vị “Cường giả”, giống như hiệp khách được mô tả trong tiểu thuyết võ hiệp, toàn thân là can đảm, lạnh lùng và vô tình. Mãi đến khi gặp ngài ấy, sau mấy ngày sống chung với ngài ấy, tôi phát hiện ngài ấy không chỉ là một con người trừu tượng lý trí. Ngài ấy cũng có một quả tim, một đống thịt tràn đầy các loại tình cảm, và cũng có một tấm lòng son sắt “Ngây thơ chân thật, đa tình đa cảm”; nước mắt của ngài ấy dường như tràn đầy hơn những người bình thường, nên cũng rất dễ tràn ra ngoài.
Linh mục Lôi không chỉ trời sinh một tính cách vô cùng hòa đồng và tình cảm: Sau khi nhận được hung tin mẹ ngài ấy qua đời, ngài ấy dưới con mắt chăm chú của chúng tôi khóc không thành tiếng, nấc nghẹn trong cổ họng; mà ngài ấy còn hiểu rất rõ sự quan trọng của “Tình cảm” trong đời sống tu đức, ngài ấy cũng hiểu sâu sắc Chúa Giêsu cũng có một quả tim luôn làm vui lòng Chúa Cha, vậy nên ngài ấy càng chú ý tới Chúa Giêsu làm thế nào yêu chuộng “Tấm lòng son”. Ngài ấy không chỉ dạy chúng tôi kiên cường đối mặt chân lý, mà còn huấn luyện chúng tôi phải bồi dưỡng “Tấm lòng son” mà Nước trời cần.
Tháng Đức Mẹ đến rồi, ngài ấy đã nắm chặt cơ hội tốt này. Ngài ấy muốn chúng tôi nhờ Đức Mẹ đến bồi dưỡng và phát huy “Tấm lòng son” mà Chúa Giêsu đã tỏ lộ.
Có người tặng cho ngài ấy một bức tượng Đức Mẹ bồng Chúa Giêsu, ngài ấy lập tức cho người chế ra một khám thờ phong cách Trung Quốc, treo trên bức tường đằng sau Thánh Đường, cách xa bàn thờ, đem tượng Đức Mẹ đặt ở bên trong tôn kính, và tôn thành “Mẹ của Chân Phúc”.
Như chúng ta đã biết, linh mục Lôi thật chẳng phải là nhà soạn nhạc, nhưng lại có mấy phần thiên tài âm nhạc. Thêm vào đó, nền tảng chữ quốc ngữ của ngài ấy cũng tương đối sâu sắc. Ngài ấy vì để bài hát chúng tôi ca không quá đơn điệu, mà có phần linh động biến hoá, bản thân ngài đã làm ra mấy ca khúc kính lễ Đức Mẹ, luật thơ và giai điệu có phù hợp hay không, tôi không nói tới, tôi chỉ cảm thấy trong ca từ của ngài ấy tràn đầy “Tình cảm khâm phục” đối với Thánh Mẫu: đơn thuần tự nhiên, lôi cuốn cảm động. Trích lục mấy đoạn dưới đây, để thấy điều đó: “Ôi Maria, Mẹ chân phúc, Mẹ khiết ái! Toàn gia chúng con, nhà của mẹ, gửi mẹ tuyệt vời, gửi cho mẹ lòng thánh, Mẹ khả ái, Mẹ chân phúc. Khiến đàn con của mẹ, thật yêu người, thường vui vẻ.”
“Vạn phúc Maria! Xin Mẹ nhận lấy: một đoàn lửa mến của đoàn con thơ chúng con”.
Dư luận hiện nay thường lấy có hay không có “Nhân đạo” để làm thước đo cao thấp của nhân cách. Cái được gọi là “Nhân đạo” với “Tấm lòng son” cũng chẳng có hơn kém bao nhiêu. Lối nhìn này chẳng phải chỉ đúng ở hiện tại thôi sao, cổ nhân sớm đã bình phẩm hợp lý. Mạnh Lão Phu tử không phải sớm đã nói qua: “Người lớn là người không mất đi tấm lòng son vậy”.
NGƯỜI TRUNG QUỐC CÓ THỂ THÀNH THÁNH KHÔNG?
Chúng ta may mắn sinh ra trong thời đại của công đồng Vaticano II, đối với quan niệm “Người người có bổn phận nên Thánh” đã được biết đến như là việc đương nhiên, nên cũng chẳng hề cảm thấy lạ lẫm. Nhưng, trước Đại Công Đồng, trong tầm mắt của giáo dân nói chung, đây quả thật là tư tưởng mới chưa từng nghe qua và cũng chẳng dám nghe ngóng. Ngay cả các tác giả tu đức bình thường cũng chỉ nói người người “Có thể” nên Thánh, mà không nói người người có sứ mạng nên Thánh. Theo truyền miệng của những người lớn tuổi, Giáo hội Trung Quốc của sáu mươi năm về trước, vẫn lưu truyền những tư tưởng rất lạc hậu, đơn cử như: “Người Trung Quốc có thể nên thánh không?”
Truyền thuyết này có căn cứ hay không, tôi không dám khẳng định, gác lại một bên để các nhà sử học Giáo Hội đi khảo chứng, tôi chỉ biết một điều: hơn năm mươi năm trước, khẳng định đã có một người dơ cao ngọn cờ chính nghĩa, lớn tiếng la hét “Người Trung Quốc có thể thành Thánh, Trung Quốc đã có thánh nhân”, người đó chính là linh mục Lôi Minh Viễn.
Kỳ nghỉ hè năm thứ 18 Dân Quốc, tôi từ Bắc Bình trở lại nhà sau năm năm xa cách. Sau khi tới nhà, phát hiện mọi căn phòng đều dán không ít hoạ ảnh “Các Thánh bản địa” mà tôi chưa từng thấy qua, có câu chuyện tử đạo của Thánh Ngô Quốc Thịnh bằng “Tranh lục bình”; còn có những bức ảnh sự tích lúc sinh thời của Trương Đại Bằng, Triệu Vinh, Hách Khải Chi, Lưu Văn Nguyên, Dịch Chân Mỹ,… Anh em trong nhà thấy tôi dùng con mắt kinh ngạc chú ý xem những bức tranh này, thì chẳng đợi tôi lên tiếng hỏi đã liền giải thích: đây là những tác phẩm của linh mục Lôi Minh Viễn, nhân vật nổi tiếng của Giáo Hội, ngài ấy đã in vô số hoạ ảnh “Các Thánh bản địa” để tặng hoặc bán rẻ cho giáo hữu. Ngài ấy và huynh đệ đi khắp nơi rao giảng: “Trung Quốc đã có thánh nhân!”
Sau kỳ nghỉ năm thứ 19 Dân Quốc, tôi đã trở thành môn đệ của linh mục Lôi. Sau khi gia nhập hội dòng, thì phát hiện những tu sỹ nhập dòng trước đây đều đã lấy “Tên Thánh nhân bản địa” làm tên dòng. Giáo phận An Quốc có không ít giáo dân mới lãnh nhận phép rửa, cũng lấy tên Thánh nhân bản địa làm tên Thánh. Khi dùng cơm, sau khi đọc Thánh Thư thì sẽ đọc lịch sử tử đạo của các Thánh nhân bản địa. Sau này, linh mục Lôi cũng lấy những câu chuyện của các Thánh nhân bản địa, trang trí trên cột, trên tường ở trong nhà thờ mà Chân Phúc Viện xây dựng.
Sau năm tháng, ngày 24 tháng 11 là lễ kính Chân phúc Triệu Vinh và các bạn tử đạo, linh mục Lôi dẫn dắt chúng tôi mừng kính rộn ràng. Khi ngài ấy giảng Lời Chúa trong thánh lễ, đặc biệt nhấn mạnh đến niềm tin nên Thánh, phải diệt trừ cảm giác tự ti “Không thể nên Thánh”. Trong bài giảng, ngài ấy còn nói tới một câu chuyện rất thú vị:
Hôm qua, cha nửa đêm trở về, đi qua một nhà thờ nọ, Linh mục chánh xứ chiêu đãi Cha cơm tối, còn khuyên Cha nghỉ lại, Cha nói với ngài ấy, tối nay cần phải mau chóng trở về Chân Phúc Viện, bởi vì ngày mai có thánh lễ quan trọng. Ngài ấy nghe xong liền ngơ ngác, kinh ngạc hỏi: “Ngày mai là lễ gì vậy?” Cha không nguyện khiến ngài ấy lúng túng, nên mời ngài ấy đi xem lịch biểu của Giáo Hội, và liền đứng dậy cáo từ.
Linh mục Lôi từ câu chuyện nhỏ này đã nói đến quan niệm “Người Trung Quốc đã có Thánh nhân” kì thực vẫn chưa nhận được sự chú ý của đông đảo đồng bào nước nhà. Chúng ta cần phải tích cực truyền bá, bởi vì nếu muốn Giáo hội Trung Quốc thẳng tiến tới ánh sáng, chúng ta cần phải làm “Thánh nhân” các nơi trỗi dậy, nếu nguyện ý nên Thánh, trước tiên phải xây dựng niềm tin: tất cả mọi người đều có thể nên Thánh và phải nên Thánh.
TIẾT TRỜI HƯNG PHẤN NHẤT
Khoảng đầu tháng bảy năm thứ hai mươi Dân Quốc, ngày nọ, ở phòng tự học của Chân Phúc Viện An Quốc, đột nhiên xuất hiện một biểu ngữ mới rất độc đáo, biểu ngữ viết: “Mỗi năm, mùa nào là thời gian thú vị nhất của anh em? Tiết Trung Phục”. (ba mươi ngày nóng nhất trong mùa hè gọi là tiết Phục Thiên, mỗi Phục có mười ngày, chia thành ba Phục: đầu-Trung-Cuối, trong đó, Trung Phục là nóng nhất).
Hơn năm mươi tu sĩ chúng tôi ngẩn người nhìn biểu ngữ: có người lắc đầu, có người che miệng cười, có tu sỹ trẻ còn hẩy mũi, thè lưỡi,… nhưng vì đang là thời gian giữ thinh lặng, nên mọi người đều không dám mở miệng bình luận.
Tới giờ lên lớp, linh mục Lôi lên bục giảng, tuyên bố với chúng tôi: “Trước khi giảng Kinh Thánh, chúng ta trước tiên hãy học một bài hát mới!”. Lời bài hát không dài, nên ngài ấy trực tiếp viết lên bản đen, kêu chúng tôi chép lại.
Ca từ mặc dù ngắn, nhưng lại rất độc đáo khác thường: “Xướng: anh em thân mến, hôm nay đã là Sơ Phục (Trung Phục hoặc Cuối Phục), đáp: Alleluia!”.
Chúng tôi vừa chép, vừa ngó ngó biểu ngữ trên bức tường, và cũng không ngừng cười khúc khích. Linh mục Lôi cũng đã cười.
Linh mục Lôi viết xong bài hát, kiềm chế nụ cười, nghiêm nghị hát qua một lần ca khúc mới. Thật là hùng tráng, sục sôi, chẳng thua kém bài “Quốc Ca Pháp la Marseillaise”. Chúng tôi học hát theo linh mục Lôi hai lần thì đều đã thuộc nằm lòng.
Học xong bài hát mới, linh mục Lôi ngồi xuống, hai mắt long lanh phát sáng, mặt mày rạng rỡ hỏi chúng tôi: “Anh em cảm thấy kỳ lạ đối với biểu ngữ trên tường và lời bài hát mới không?”Mọi người đều cười vang lên.
Đột nhiên, tu sỹ Đại Bằng, đứng dậy nói một cách đơn sơ chất phác: “Phục Thiên, thời tiết nóng khiến người ta mệt mỏi, có gì thú vị, thưa cha!”
“Con nói đúng một nửa”. Linh mục Lôi hiền từ đáp: “Trời nóng người mệt, đó là hiện tượng sinh lý tự nhiên, cũng là lẽ thường của con người. nhưng chúng ta có ý chí, chúng ta càng có đức tin; vì vậy cũng nên khống chế cảm xúc. Mùa hè, đặc biệt tiết Trung Phục, đã được định sẵn là oi bức, cha không phản đối dùng phương pháp chính đáng tránh nắng, tiêu nhiệt, nghỉ nắng, nhưng cha không hy vọng ý chí của anh em sa sút, mà đầu hàng cái nóng. Thay vì cúi đầu thở dài, oán trời trách đất, không bằng hãy ưỡn ngực, vực dậy tinh thần, đương đầu với cái nóng, như thế ở trước mặt Thiên Chúa càng ý nghĩa và càng có giá trị hơn”. Hãy ghi nhớ lời cha nói với anh em: ‘Người lấy tinh thần hưng phấn đón tiếp khó khăn, khó khăn đã được khắc phục một nửa rồi’”.
Nói ra cũng thật có những điều kỳ lạ: Từ lúc ấy, mỗi ngày hai lần trước và sau buổi trưa, cũng như trước khi làm việc, linh mục Lôi đều lấy giai điệu hưng phấn hát: “Anh em thân mến, hôm nay đã là Trung Phục”. Chúng tôi liền dùng tông giọng cao hơn đáp lại: “Alleluia”, liền cảm thấy cái nóng như tiêu biến đi rất nhiều. Làm việc dưới cái nắng như thiêu, mặc dù mồ hôi như mưa, nhưng tấm lòng rộng mở, và tinh thần cũng hưng phấn và thoải mái biết bao.
HÒA MÀ KHÔNG TAN, LÀ KẺ MẠNH VẬY!
Ngày mười chín tháng bảy năm thứ hai mươi Dân Quốc, là lễ kính Thánh Vinh Sơn, bổn mạng của linh mục Lôi. Ngoài thánh lễ long trọng vào buổi sáng, chúng tôi còn tổ chức một buổi chúc mừng nhỏ nhỏ: có diễn thuyết, có ca kịch, có hát xướng,…. Cuối cùng là lời hồi đáp của linh mục Lôi. Trong lời hồi đáp ấy, Chúng tôi xin linh mục Lôi nói về tình hình truyền giáo khi ngài mới đến Trung Quốc. Lúc đầu ngài ấy không chịu, nhưng chúng tôi hết lần này đến lần khác năn nỉ, cuối cùng ngài ấy cũng đáp ứng chỉ nói một đoạn nhỏ, thời gian không quá mươi phút.
Ngài ấy nói: “Khi cha vừa tới Trung Quốc, chính là đợt thứ hai Liên Minh Bát Quốc đang giày xéo và bóc trần con hổ giấy Mãng Thanh. Nhân sĩ tứ phương cư ngụ ở Trung Quốc đa phần đều vênh váo kênh kiệu, coi thường người Trung Quốc. Cha ôm sự hăng hái tràn đầy “Thán phục văn hóa Trung Quốc, ái mộ đồng bào Trung Quốc”, đương nhiên cha nhìn không quen tác phong của họ. Do đó, khó tránh khỏi phát sinh những bất đồng với họ.
Khi mới đến nhà thờ Tây Thập Khố (Bắc Bình, Bắc Kinh), nhìn thấy tiền bối đồng đạo rất yêu quý cha mà cha cũng rất kính phục, khinh thường những người làm công, cha đã kinh ngạc hỏi ngài ấy tại sao lại như vậy. Ngài ấy nói: “Con trai nhỏ à! Mới tới Trung Quốc, không hiểu chuyện, người Trung Quốc không phải cũng như thế đối xử với anh ta sao! Anh ta không có công việc, qua mấy tháng con sẽ hiểu rõ thôi”. Cha nói với ngài ấy cha không bao giờ có tư tưởng như vậy. Ngài ấy nói: “Cái đầu của con mặc dù cứng, tối đa qua một năm thì thay đổi à, khả năng còn thay đổi nhiều hơn ah!” . Cha nói với ngài ấy: “Đến chết cũng không đổi”.
Khi cha mới đến Trung Quốc, cha vẫn là một tu sĩ bình thường, tám tháng sau (28/10/1901) thừa lệnh giám mục nhận chức linh mục. Đêm trước khi tiến chức, trong tim cha cảm thấy vô cùng bất an, cách thức suy nghĩ của cha và những đồng đạo đương thời cách biệt rất xa. Giám mục Lâm phục vụ Chúa thì chân thành, truyền giáo thì nhiệt tâm, cha vô cùng kính trọng và tin tưởng ngài ấy. Cha to gan trần thuật cảm tưởng của cha cho ngài ấy: “Mấy ngày trước, con tham quan ngọn núi kia, từ trên núi nhìn xuống toàn thành phố, thật sự đẹp cực kỳ,… nhưng trong thành có hai vết sẹo: Phía đông là “Cảng Giao Dân”, một dải nhà vườn óng ánh; phía tây là “Tây Thập Khố”, lại là một khu nhà kiểu tây màu xám mộc mạc. Cảng Giao Dân đại diện cho chủ nghĩa thực dân xâm lược Trung Quốc, ngôi thánh đường của chúng ta tượng trưng tình yêu bác ái của Chúa Kitô. Nhưng không ngờ, hai biểu tượng này cuối cùng lại phát sinh sự liên hệ cực kỳ mật thiết. Nếu Từ Hy Thái Hậu leo lên “Ảnh Sơn”, nhìn thấy hai mảnh này tay nối tay, thì phải có suy nghĩ như thế nào?”.
“Con nói có lí, nhưng chúng ta phải theo sự an bài của Thiên Chúa” giám mục Lâm đáp.
“Nhưng chúng ta cũng phải mở đường cho Thiên Chúa: thay đổi phong cách ấy!” cha thành khẩn và to gan kiến nghị với giám mục Lâm.
Giám mục Lâm với nết mặt trầm tư, nghiêm nghị nói với cha: ‘Tiểu tử à! con thật không biết trời cao đất dày, mà con nghĩ một tiểu tử hai mươi lăm tuổi có thể thay đổi những tích lũy hàng thế kỷ không? Mau đi tĩnh tâm thật tốt, đừng suy nghĩ vớ vẩn nữa”.
Khi cha rời khỏi phòng của giám mục Lâm, trong tim thầm nghĩ: “Ta mặc dù bất lực, không thể thay đổi đại cục, nhưng ta cũng không thể thuận theo dòng nước”.
“Anh em à!” sách “Trung Dung” nói: “Hòa mà không tan, ấy là kẻ mạnh vậy!” đây chính là châm ngôn của cha.
SỰ KIỆN 918
Trong đời sống tập viện của hội dòng chúng tôi, bình thường không cho phép đọc báo chí, nhưng ngày thứ hai của biến sự “918” (Năm thứ hai mươi Dân Quốc), linh mục Lôi không chỉ cho phép chúng tôi xem báo, mà tiết học đầu tiên của ngày hôm ấy, ngài đã tạm ngừng giải thích Kinh Thánh và đổi chủ đề giảng thuyết thành “Cứu quốc”.
Linh mục Lôi hôm ấy nói: “Ái quốc là một trong những trách nhiệm vô cùng quan trọng của giáo hữu, là mệnh lệnh cực kỳ nghiêm trọng của điều thứ 4 trong Thập Giới, là thành phần rất quan trọng trong đời sống hội dòng, và cũng là nhiệm vụ trọng đại của mọi anh em tu sĩ, ắt phải lấy “Phục hưng dân tộc” làm trách nhiệm của bản thân….Ngài ấy từ nguyên lý “Ái quốc”, nói tới biện pháp “Cứu quốc”, luôn luôn bàn về “Hành động thực tế” làm thế nào cứu quốc. Ngài ấy mà mở miệng, thì thật sự giống như dòng chảy Trường Giang, ngàn dặm chạy băng băng vậy!”.
Ở đất nước chúng ta vẫn là lần đầu tiên nghe một vị linh mục – một vị linh mục sinh ở ngoại quốc – nói đạo lý “Yêu Trung Quốc”, giảng giải và kêu gọi tu sĩ cũng phải ra tiền tuyến. Thêm nữa, khi ngài ấy lên đài diễn thuyết, biểu cảm hào hứng, câu từ có lực, ánh mắt long lanh, sự nhiệt tình của ngài ấy giống như hoa lửa vậy, tỏa ra từ trong mắt trong miệng, khiến cho đám thanh niên tràn đầy nhiệt huyết chúng tôi đều rất cảm động và sục sôi. Chúng tôi ngoài mặt nín thở tập trung lắng nghe ngài ấy diễn thuyết thao thao bất tuyệt, nhưng trong tim máu nóng sôi sục, hận không thể chắp thêm đôi cánh bay tới Đông Bắc, buộc kẻ thù phải thoái lui.
Linh mục Lôi xưa nay không nói suông, cũng chẳng làm điều vờ vị. Ngài ấy lập tức mời một vị tướng quân, huấn luyện cho chúng tôi những động tác “Cứu thương” căn bản nhất, để chuẩn bị khi quân kháng chiến nổi dậy, liền thống lĩnh chúng tôi tới “Tiền tuyến” cứu hộ thương binh.
Từ ngày đó trở đi, chúng tôi sau mỗi buổi tối, đều quỳ trước tượng “Mẹ Chân Phúc”, hát thêm một bài hát cầu bình an cho quốc gia, và xin thánh nữ John d’Arc (Thánh nữ anh hùng kháng chiến tại Pháp) cầu bầu, giải cứu nguy nan của đất nước.
Nhắc đến bài hát cầu nguyện này, vẫn có một đoạn nhạc đệm đáng ghi nhớ. Hiện nay, giáo hữu đất nước chúng ta đa phần đều biết ngân nga “Kinh Kính Mừng” theo kiểu nhạc truyền thống Trung Quốc. Theo tôi được biết, linh mục Lôi là người đầu tiên ứng dụng nhạc truyền thống để sáng tác thánh nhạc. Nhưng, ca từ không phải là “Kính Mừng Maria”, mà là bài hát cầu nguyện cầu bình an cho quốc gia, ca từ như sau:
Mẹ nhân ái, mẹ hãy nhìn xem Trung Quốc đang chiến tranh loạn lạc, đang bao phủ đặc dày cạm bẫy của ác quỷ.
Năng lực chúng con yếu đuối, giương ánh mắt thấm đẫm lệ nhòa, chìa đôi tay run rẩy, hướng về mẹ cầu xin phù trợ.
Xin cứu chúng con! Lạy mẹ nhân ái.
Sau hàng chục năm, ông Giang Văn Miết cũng dùng nhạc phổ tương tự, phối hợp bài kinh “Kính Mừng Maria” chính là kinh kính mừng tiếng Trung lưu hành hiện tại.
TẾT TRUNG THU
Một ngày trước Tết Trung Thu, có một vị giáo hữu đến thăm linh mục Lôi. Khi gặp gỡ người ấy cất tiếng hỏi: “Linh mục và quý tu sĩ có ăn lễ không?”
Nghe thế, linh mục lôi thản nhiên đáp không cần suy nghĩ: “Đương nhiên là phải ăn tết chứ!”
Anh ta liền cười vui vẻ vừa đứng nói vừa thuận tay đưa cái giỏ to đeo trên vai, đặt trước mặt linh mục Lôi: “Tốt rồi, tôi mời mọi người ngày mai ăn no nê một bữa thịt!”
“Không thể !” linh mục Lôi cự tuyệt nhận món quà của anh ta: “Chúng tôi cả đời ăn chay, ăn tết cũng không phá giới”.
__ “Linh mục yên tâm” nói đoạn, anh ta từ trong túi lấy ra một con ve sầu: “Nghe nói quý vị mặc dù không ăn thịt, nhưng lại có thể ăn châu chấu (noi gương Thánh Gioan Tẩy Giả),…Ve sầu cùng loại với châu châu. Tôi mất hai ngày bắt được hơn mười cân đây!”.
Hôm sau, buổi trưa Tết Trung Thu, trên bàn ăn đầy những Ve sầu chiên bột. Kỳ thực, món này cũng không có ngon.
Sau bữa tối, toàn hội dòng chúng tôi tập trung ở ngọn núi giả trong tu viện, ngồi quanh linh mục Lôi ngắm trăng, và chuẩn bị “Lời Cảm Tưởng”. Sau khi mọi người đã yên vị, người chủ trì vẫn chưa nói, thì một vị tu sĩ trẻ đã phát biểu: “Hôm nay mặc dù là đến lượt con nói “Lời Cảm Tưởng”, nhưng chúng con hy vọng linh mục Lôi nói về mối liên hệ của Tết Trung Thu và tu đức”. Mọi người đều vỗ tay nhất trí.
Linh mục Lôi cười cười, chẳng có chối từ, liền mở “Máy nói” cất lời: Ý nghĩa nguyên thủ của Tết Trung Thu, chúng ta không đi thảo luận nó. Kỳ thực, phần lớn dân Trung Quốc đều không tin tưởng sự tồn tại của “Lão thỏ ngọc”. Cha cảm thấy ý nghĩa phổ biến nhất mà mọi người hôm nay vui vẻ ăn Lễ Trung Thu là “Đại đoàn viên”. Nếu lấy thuật ngữ tu đức để hình dung, có thể gọi là “Sự đoàn viên của tình yêu”.
Tối hôm nay, mọi gia đình, nam nữ lão ấu, hoặc mời mấy vị tri kỷ, dưới ánh trăng tỏ, trong gió mát, cùng nhau dùng bữa, thưởng trà, ăn bánh trung thu, ăn trái cây, tán gẫu, ngắm trăng, kể chuyện… thực sự vui vẻ. Đây cũng thực sự là thứ thiết yếu biết bao. Bởi vì sự liên kết giữa người với người chính là “Tình yêu”, sự yên bình của xã hội, sự hạnh phúc của nhân gian, cũng lấy sự hỗ tương của con người làm nền tảng.
Nhưng, xưa nay mọi người đều vì cuộc sống, vì công việc, có khi không thể không từ biệt thân hữu, ra ngoài đi phấn đấu, thiếu hẳn cơ hội tỏ lộ, bồi dưỡng, cường hóa và phát huy “Tình yêu”. Vì thế, thực sự cần có ngày này, mọi người họp lại, trò chuyện, trao đổi ý kiến, và xây dựng những liên hệ tình cảm. Ngày Lễ Trung Thu, trăng thanh gió mát, hội họp để biểu tả tình yêu, chính là một ngày đẹp không thể phù hợp hơn. Đây có thể nói là ý nghĩa chính yếu nhất của Tết Trung Thu vậy.
Để mở rộng sự tương thân tương ái của con người, Chúa Giêsu và môn đệ của Ngài cũng đã cử hành bữa ăn cuối cùng, bữa ăn thân tình này đã lưu lại cho chúng đệ tử ấn tượng cực sâu sắc. Trong cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, cũng thường cử hành “Bữa ăn thân ái” này (Cv 2,44-47).
Bữa ăn thân ái này của các Kitô hữu, một mạch luôn lưu truyền tới ngày hôm nay, và sẽ lưu truyền cho tới ngày thế mạt, đó chính là “Thánh lễ”. Mặc dù hình thức hội họp có một số biến chuyển, nhưng tinh thần và chủ ý hội họp vẫn mãi là một, chính là “Tình yêu”.
MỘT ĐÓM LỬA
“Thầy đến ném lửa vào thế gian, chẳng phải hằng ước mong nó bùng lên sao?” (Luca 12,49).
Khi linh mục Lôi thuyết giảng, ngài ấy thích nhất trích dẫn lời này của Chúa Giêsu. Ngài ấy giải thích “Nhiệt tâm” là “Một đốm lửa”, là “Một khối tinh thần”. Ngài ấy hy vọng nam nữ đệ tử của ngài đều trở thành người có “Tinh thần phấn đấu” giống như “Lửa” vậy. Ngài ấy thường cổ vũ chúng tôi: “Sứ mệnh của anh em là sứ mệnh tinh thần”. Chẳng nghi ngờ gì, bản thân linh mục Lôi chính là một đốm lửa.
Linh mục Lý Diệu Nhiên là người cộng tác với linh mục Lôi lúc truyền giáo ở Thiên Tân, cuối đời vì lao lực mà bại liệt. Cha ấy ở Chân Phúc Viện của chúng tôi vừa dưỡng bệnh, vừa dạy giáo lý. Khi lên lớp, cha ấy đã từng nói, linh mục Lôi là một đốm lửa, một ngọn đèn sáng, ngài ấy đi tới đâu, mọi người giống như “Bướm đêm ăn đèn” đều hướng về phía ngài ấy. Rất nhiều khách nhân của Chân Phúc Viện cũng đều nhận xét về linh mục Lôi như vậy, Anh em cũng đều có thể làm chứng điều này là không sai. Không chỉ là người trong giáo hội mới đến xin thỉnh giáo ngài ấy, mà cả quan lại đại thần, sỹ phu nổi tiếng, tài phiệt công thương, hòa thượng đạo sỹ,… cũng đều lần lượt đến thỉnh giáo, và hy vọng từ nơi linh mục Lôi sẽ thu được ánh sáng, cũng như sự ấm áp của cuộc đời.
Quả thực, linh mục Lôi là một đốm lửa nhỏ mà Chúa Giêsu ném vào Giáo hội Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ hai mươi. “Thầy đến ném lửa vào thế gian, chẳng phải hằng mong ước nó bùng lên sao?” lịch sử chứng minh: linh mục Lôi, loại lửa của Chúa Giêsu này, gần năm mươi năm trở lại đây, đã tóe ra bao nhiêu hoa lửa ở Trung Quốc rồi?
ĐỐT LÊN HOA LỬA
Bỏ xuống và quên đi “Ngọn lửa lây lan” của linh mục Lôi dấy lên nơi Giáo hội Trung Quốc. Ở đây chỉ trần thuật một câu chuyện rất động lòng người về một “Hoa lửa” khác đã được “ngọn lửa Lôi Minh Viễn” đốt cháy lên.
Trước Lễ Giáng Sinh năm 1932, một vị thiếu nữ nhỏ tuổi người Pháp, từ Âu Châu xa xôi, đã trông thấy đốm lửa “Thoắt ẩn thoắt hiện” ánh lên từ An Quốc-Hoa Bắc, tựa như các vị hiền sĩ theo đuổi ngôi sao lạ của Cứu Chúa, chẳng quản bao nhiêu khó khăn nguy hiểm, một mình đến huyện Định-Hà Bắc – cách huyện An Quốc 60km. Vị thiếu nữ ấy một câu tiếng Trung cũng không biết nói, bước xuống xe lửa, hoa chân múa tay hỏi thăm chú cảnh sát. Chú cảnh sát nhanh trí, vừa nhìn thấy nữ tử ngoại quốc mắt xanh mũi lõ, mặc dù không hiểu lời của cô ta, nhưng lập tức theo bản năng gọi một chiếc “Xe kéo”, gửi cô ấy tới nhà thờ.
Khi ấy, cha sở đang ở nhà thờ huyện Định, chính là linh mục Ch.N, người kịch liệt nhất vận động phản đối linh mục Lôi “Địa phương hóa giáo hội”. Ngài ấy vừa nhìn thấy vị thiếu nữ đồng hương đường xa đến Trung Quốc, trước là hết sức vui mừng; nhưng khi đã hỏi rõ mục đích đến, thì nghiêm nghị nói với cô ấy: “Con điên rồi phải không? Một thiếu nữ hai mươi tuổi như con, cô thân một mình chạy đến một đất nước xa lạ cách hàng vạn dặm, đã không phải là hành trình của người “Thần kinh bình thường”, con vẫn muốn đi nhờ cậy một kẻ điên, một tên ngốc nghếch, một tên …… cha nói với con, hai cộng đoàn mà anh ta sáng lập, đơn giản không phải hội dòng, là…! Chúng ta gọi là “Hội những kẻ ngốc”: Hai nhóm người bọn họ, ăn trưa không ăn tối, có khi mọi người đi vào nhà ăn, chỉ có đậu tương luộc…. thời tiết hiện tại lạnh như vậy, trong nhà bọn họ không đốt bếp lò, ban đêm đi ngủ cũng chẳng có chăn mền…. con tốt nhất đáp xe lửa đi Bắc Bình, rồi đến Thiên Tân, đón tàu trở về nước; nếu lộ phí của con không đủ, cha có thể cho con mượn tiền. Nhanh ! chuẩn bị về nước đi!”
“Hoa lửa” của vị thiếu nữ bị tinh thần của linh mục Lôi đốt lên, đã bị dội một gáo nước lạnh, liền cúi đầu khóc. Nhưng nội tâm ngưỡng mộ hướng về ngọn lửa nóng của linh mục Lôi lại giống như lửa thêm dầu càng thêm rực sáng. Cô ấy ngẩng đầu nói: “Linh mục, con xa như vậy đến đây, con muốn gặp linh mục Lôi một lần, nếu không hy vọng, con sẽ lập tức trở về nước. Con bây giờ chỉ xin linh mục nói cho con làm thế nào tới huyện An Quốc, nếu có thể thuê cho con một phương tiện giao thông, con càng cảm kích linh mục hơn bội phần!”
“Con bị điên rồi, bị Lôi Minh Viễn ám rồi!” vị linh mục quản xứ này mắng thiếu nữ ấy. “Tốt thôi! Ta sẽ gọi người thuê cho con một xe ngựa, đưa con tới huyện An Quốc!”
Như thế, vị thiếu nữ người Pháp này đã gia nhập “Dòng Têrêsa hài đồng” mà linh mục Lôi đã sáng lập, và trở thành nữ tu ngoại quốc đầu tiên của hội dòng ấy.
Linh mục Lôi là người chủ trương “Người xuất gia không họ tên”, vậy nên, ngài ấy căn bản không có đặt cho vị thiếu nữ người Pháp này cái họ tiếng Trung, chỉ gọi cô ấy là “Nữ tu Luca”.
Vị nữ tu này chẳng có tê cóng, cũng chẳng đói chết, và cũng chẳng phát điên. Cô ấy vẫn mạnh khỏe, năm nay cũng đã gần tuổi bát tuần. Sáu mươi năm nay, vị thiếu nữ ấy đã đi khắp Trung Quốc: qua Sơn Tây, tới Thiểm Tây, Giang Nam, Tứ Xuyên,… Thời kỳ kháng Nhật, còn theo linh mục Lôi ra tiền phương—Núi Trung Tiêu và Núi Thái Hành, cứu hộ thương binh. Ngày nay, cô ấy vẫn tiếp tục tóe ra những ngọn lửa của linh mục Lôi, nói đúng hơn là “Hoa lửa”—ngọn lửa của Chúa Giêsu, cũng đã được cô ấy lan tỏa, đốt lên không ít.
LINH MỤC LÔI ĂN TẾT KHÔNG?
Giao thừa năm thứ hai mươi bốn Dân Quốc, khi linh mục Lôi đang ở văn phòng làm việc xử lý công vụ, huyện trưởng Trương, huyện trưởng huyện An Quốc đột nhiên đến thăm. Ngài ấy đi vào cửa lớn của Chân Phúc Viện, biết linh mục Lôi ở nhà, ngài ấy không cần người truyền đạt dẫn lối, mà trực tiếp đi vào văn phòng làm việc của linh mục Lôi chào hỏi: “Linh mục Lôi, ngài không ăn tết sao?”
Linh mục lôi thản nhiên đáp: “Đương nhiên phải ăn tết chứ! Ngài xem anh em chúng tôi đang làm “Sủi cảo”, chuẩn bị cho bữa ăn tất niên sáng ngày mai đấy!
Huyện trưởng đáp lời: “Tôi là nói: ăn tết, mọi người không nghỉ ngơi sao?”
“Nghỉ ngơi! Không, chúng tôi luôn luôn không nghỉ ngơi, thay đổi công việc chính là nghỉ ngơi vậy! Ngài không biết sao?”
Vậy nên, Thời gian mùa xuân, ngài ấy vẫn cho phép anh em chúng tôi đi thăm thân hữu, nhưng không phải là vì tiêu khiển giải trí, mà là để “Làm việc” – một công việc trá hình .
Huyện trưởng tiếp tục câu chuyện: “|Linh mục Lôi, bản thân ngài không nghỉ ngơi sao?”
Linh mục lôi trả lời: “Ông xem! thư tín trên bàn xử lý chưa xong, tôi nào có thời gian nghỉ ngơi ư? Đồng thời …..”
“Đồng thời, tôi hiểu rồi!” huyện trưởng Trương không đợi linh mục Lôi nói xong, liền cướp lời, lấy tay chỉ vào biểu ngữ chữ lớn trên tường, nói: “Ngài phải làm gương cho anh em: 先之勞之!”.
Nói đoạn, hai người phá lên cười haha.
Trò chuyện khoảng ba mươi phút, Huyện trưởng Trương cáo biệt ra về.
Tư tưởng trung tâm của cuộc trò chuyện này, linh mục Lôi trước khi qua đời không lâu, đã viết xuống trong Luật Dòng Tiểu Đệ Thánh Gioan Tẩy Giả, làm thành điều khoản chính của luật dòng: “Tiểu đệ luôn luôn không nghỉ ngơi”. Phía sau ngài thêm một lời giải thích “Thay đổi công việc là nghỉ ngơi vậy”.
Sau công đồng Vaticano II, các dòng tu dựa theo điều 26, Nguyên tắc thực thi sắc lệnh canh tân đời sống dòng tu: “Các tu sĩ cần có một số thời gian cho bản thân”, rồi dần dần đều có thói quen hình thành thời gian “Hoạt động tự do”. Trước đây hơn năm mươi năm trước, linh mục Lôi đã lưu lại thói quen bất thành văn này cho anh em Gioan Tẩy Giả: ngày kế tiếp bốn đại lễ lớn trong Giáo Hội hằng năm, bao gồm: Giáng Sinh, Phục Sinh, Ngũ Tuần, và Đức Mẹ Thăng Thiên, là thời gian “Hoạt động tự do” của các tu sĩ. Tu sĩ trong ngày này hoặc đi ra ngoài, hoặc lưu lại tu viện, họ tự do chọn lựa. Nhưng linh mục Lôi nói rõ, đây là một ngày “Làm việc tự do”, chứ không phải là thời gian nghỉ ngơi để giải trí tiêu khiển.
CHỈ MÀNG GIEO GIỐNG, KHÔNG MÀNG KẾT QUẢ
Một năm sau khi linh mục Lôi thành lập Dòng Gioan Tẩy Giả, trong ngôi trường bên cạnh nhà thờ quê hương chúng tôi, một “Chân Phúc Viện dự tu” đã được thành lập, trong viện có hơn ba mươi học sinh chuẩn bị gia nhập Hội Dòng Gioan Tẩy Giả, và tôi cũng nằm trong số đó. Linh mục Lôi cũng thường tới đây giảng dạy cho chúng tôi.
Cuối năm tuổi mười tám tuổi của tôi, linh mục Lôi lại đến nhà thờ đó kinh lý, thuận tiện triệu tập những tu sinh dự bị chúng tôi giảng dạy giáo huấn, Ngài cổ vũ chúng tôi phải lợi dụng thời gian nghỉ hè để làm một số hoạt động có ý nghĩa.
Vì thế, sau khi thi xong, dưới sự chỉ đạo của linh mục chánh xứ (đương thời cũng là chuẩn đệ tử của linh mục Lôi), những tu sinh dự bị chúng tôi có hơn mười người nhóm họp làm thế nào thực hiện hy vọng của linh mục Lôi. Người trẻ, sức sống bừng bừng, có hùng tâm, thích danh vọng, ít lắng lo, chịu hy sinh, nên liền quyết định tại chỗ: một ngày sau tết Âm lịch, sẽ cùng nhau trở lại trường, để tổ chức đội tuyên truyền lưu động, phối hợp với đội nhạc của nhà trường, tới các thôn trấn lân cận tiến hành “Đại hội bố đạo đường phố”.
Buổi chiều giao thừa, chúng tôi chia tay trở về nhà ăn tết. Mùng một tết, sau khi chúc tết bố mẹ, tâm “Hiếu thắng” sôi sùng sục như nước sôi, không đợi đến ngày ước định, buổi chiều hôm đó tôi liền trở lại trường chuẩn bị công việc “Đại hội bố đạo”.
Một gia đình giáo hữu giàu có đã chuẩn bị cho chúng tôi ba chiếc xe song mã, dưới sự dẫn dắt của linh mục quản xứ và thầy phụ đạo, đi dọc theo các con đường làng, vừa biểu diễn nhạc tây, vừa lấy xe lớn làm đài giảng đạo, tuyên truyền “Bố đạo lưu động”.
Thời gian nghỉ lễ, người người nhà nhà nhàn rỗi hơn, thôn xóm lại thiếu nơi vui chơi, vì thế, trống tây kèn tây cũng có sức hấp dẫn tương đối lớn. Vì vậy, mỗi khi tới một thôn, mặc dù không thể nói núi người biển người, nhưng người vây lại xem tương đối đông đúc. Mỗi lần đại hội bố đạo có ba hoặc bốn tiết mục diễn thuyết không ngừng. Mỗi ngày tới hai thôn, buổi sáng một thôn, buổi chiều một thôn. Chu du như thế năm ngày, mọi người mặc dù rất mệt, nhưng cũng cảm thấy vô cùng hưng phấn.
Sau khi tôi nhập dòng, dường như mùa đông mỗi năm đều có linh mục chánh xứ, xin linh mục Lôi phái tu sĩ đến hiệp trợ tổ chức “Đại hội bố đạo”. Có một năm nọ, linh mục Lôi đã chỉ định tôi tới một nhà thờ lớn ở huyện An Bình, trợ giúp linh mục chánh xứ tiến hành “Đại hội bố đạo” trong ba ngày. Ngày đó, tôi đã hơn hai mươi, cũng đã hoàn thành hai năm nhà tập. Tư tưởng đang trong giai đoạn “Suy biến”. Sau khi chấp nhận lệnh của linh mục Lôi, tôi nhớ lại hiệu dụng đối với “Đại hội bố đạo” mà ba năm trước thời học sinh đã làm, ký ức ấy gây nên sự hoài nghi trong tôi. Tôi bình thản biểu tả cái nhìn của mình với linh mục Lôi.
— “Con nhất định phục tùng mệnh lệnh đi huyện An Bình, nhưng con cảm thấy “Đại hội bố đạo”, ngoài khoe mẽ chơi trội, xem ra chẳng thấy có tác dụng gì tốt hơn”.
— “Con à, tư tưởng của con quả thật đã có tiến bộ”, linh mục Lôi ngừng một chút, hai mắt chăm chú nhìn tôi, tiếp tục nói: “Nhưng vẫn rất ấu trĩ; không muốn khoe mẽ là tiến bộ, nhưng nói đại hội bố đạo vô dụng thì thật là ấu trĩ!”.
— “Xin cha giải thích câu thứ hai!”.
— “Ý nghĩa của bố đạo là “Gieo giống”, công hiệu của hạt giống không ở trước mắt. Nước ta có câu cách ngôn: “Chỉ màng gieo giống, không màng thu hoạch”. Con à, con chỉ quản đi gieo giống, tương lai người khác sẽ thay con đi thu hoạch” .
Trong tuyết đông lạnh giá, ôm con tim ấm nồng, tôi đã lại lần nữa bước đi trên “Chính lộ”.
SỰ QUẤY RẦY ĐỘNG LÒNG NGƯỜI
Trước khi quân đội nổi dậy kháng Nhật, tháng 5 hằng năm có thể coi là tháng náo nhiệt và thánh thiêng nhất ở Giáo Hội Trung Bộ tỉnh Hà Bắc. Mỗi ngày đều có hàng ngàn hàng vạn giáo hữu tới Đông Lư, Bảo Định, hành hương kính bái “Đức Mẹ Trung Hoa”.
Tháng năm, năm thứ hai mươi mốt Dân Quốc, Giám mục Tôn, Giám mục Giáo phận An Quốc, cũng kêu gọi và trực tiếp hướng dẫn nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ cũng như nhiều đại biểu giáo hữu các nhà thờ trong giáo phận tham gia vào hành động hành hương thánh thiêng này. Năm đó, linh mục lôi cũng dẫn dắt chúng tôi bước vào hành trình này.
Nhớ khi ấy, linh mục Lôi đã dẫn hơn năm mươi tu sĩ bổn hội từ An Quốc đi Đông Lư, nhưng giữa đường thì dừng lại hai tiếng đồng hồ ở một thôn nọ, mục đích là để tham dự một lễ tang đang diễn ra ở đó. Người chết là một bà cụ kính tin Thiên Chúa. Con trai của bà ta là một thân sĩ địa phương, là bạn hữu của linh mục Lôi, và cũng đã từng đảm nhận qua chức vụ trong Tòa Soạn Ích Thế mà linh mục Lôi thành lập. Không biết vị giáo hữu lịch thiệp này đã phạm giáo quy gì, mà lại phải chịu “Vạ tuyệt thông” của linh mục quản xứ. Vị linh mục quản xứ này cự tuyệt dùng nghi thức Công Giáo cử hành lễ an táng cho bà cụ, đồng thời cũng thể hiện sự không hoan nghênh linh mục Lôi và đám tu sĩ chúng tôi tham gia lễ tang. Sau khi giãi bày ý kiến tương phản với linh mục quản xứ, linh mục Lôi cũng chẳng màng sự phản đối của vị ấy, nhưng y theo kế hoạch đã định hướng dẫn chúng tu sĩ cử hành thánh lễ cầu nguyện cho người mới qua đời. Thế là giữa hai vị linh mục này đã phát sinh sự bất đồng nghiêm trọng.
Cầu nguyện xong, vị thân sĩ nọ đã giữ linh mục Lôi và chúng tu sĩ ở lại dùng cơm trưa tại nhà ông. Linh mục Lôi chấp nhận để vị giáo hữu này tiếp đãi chúng tu sĩ, còn bản thân ngài ấy lại một mình đi đến nhà thờ, nơi vị linh mục nọ đang coi sóc.
— “Lão đệ, buổi trưa tôi muốn ở chỗ cha ăn cơm”. Linh mục Lôi đề xuất với vị linh mục nọ.
— “Con ở đây không có cơm cho ngài!” hai luồng nộ quang bắn thẳng vào mặt linh mục Lôi.
— “Tôi nhất định phải ăn cơm của cha, vẫn muốn ăn sạch cơm của cha!”. Linh mục Lôi vỗ vai đối phương.
— “Bạn của ngài mời các ngài dùng đại tiệc mà!” Linh mục chánh xứ như cũ cố chấp đuổi khách.
— “Hôm nay không thể không ăn cơm của cha rồi!” linh mục Lôi đang nói liền ngồi xuống.
Vị linh mục nọ do dự ít phút, và dần thu lại hai ánh mắt hình viên đạn, hướng về linh mục Lôi nói: “Ngài… Ngài… Con người ngài!” ngõ hầu phá vỡ cục diện lúng túng này.
Thế là hai vị linh mục vừa cười vừa nói, cùng ăn một bữa trưa vui vẻ.
Câu chuyện tường thuật ở trên, linh mục Lôi sinh thời chưa từng thổ lộ ra. Là sau khi ngài ấy qua đời, là vị linh mục chánh xứ nọ đích thân kể cho tôi. Vị linh mục này kể xong đoạn chuyện ấy, cuối cùng cảm thán: “Tôi trời không sợ, đất không sợ, chỉ sợ một mình linh mục Lôi mà thôi!”.
ĐEM THAN HỒNG CHẤT TRÊN ĐẦU HỌ
Mọi người đều biết, linh mục Lôi sinh thời nổi tiếng là người “Làm việc chăm chỉ”. Phương tiện giao thông mà ngài ấy đi lại, chủ yếu vẫn là xe đạp; ngài ấy “Đường không phân xa gần, lộ chẳng luận thấp cao”, hầu hết là đạp “Ngựa sắt” chạy băng băng. Nếu có việc cấp bách, mà lại là đường xa, để tiết kiệm thời gian, ngài ấy liền đạp xe tới trạm xe lửa gần nhất, sau đó ngồi xe lửa mau chóng lên đường.
Trạm xe lửa cách huyện lị An Quốc gần nhất là Định huyện. Vì thế, huyện lị này đã trở thành nơi ngài ấy thường xuyên lui tới. Vừa vặn khi ấy người quản lý nhà thờ ở huyện ấy chính là linh mục Ch.N, người phản đối kịch liệt nhất cuộc vận động “Bản địa hóa Giáo Hội” của linh mục Lôi đã được nhắc đến phía trên. Cá tính của vị linh mục này còn mạnh hơn cả linh mục Lôi, trước sau luôn vận động phản đối. Ngay cả khi các giáo phận bản địa lần lượt được thành lập, vị linh mục này vẫn không bỏ đi chủ trương phản đối của mình, đặc biệt là đối với linh mục Lôi, ngài ấy không chỉ phản đối sau lưng, mà còn chê trách thẳng mặt. Ngài ấy mỗi lần gặp linh mục Lôi, nhất định không bỏ qua cơ hội, rập khuân tố cáo sự ngu xuẩn của linh mục Lôi, đồng thời thể hiện sự tiếc xót đối với Giáo Hoàng vì đã tin nghe một kẻ “Điên” (tức linh mục Lôi), và ôm “Một sự lo lắng vô căn cứ” đối với tiền đồ của các giáo hội địa phương.
Theo cách nghĩ của một người bình thường, linh mục Lôi đi qua Định huyện, nhất định sẽ không đến nhà thờ tìm “Phiền phức”. Nhưng, cách suy nghĩ của nhân vật vĩ đại trước sau chẳng giống kẻ tầm thường, linh mục Lôi nói với tôi, ngài ấy mỗi lần đi qua Định huyện, ắt đều sẽ tới nhà thờ thăm bạn của ngài, và đem xe đạp gửi ở đó. Nếu có lúc vì đợi tàu – lúc ấy tàu hỏa thường hay “Trễ giờ”, có khi phải chờ đợi vài giờ đồng hồ, linh mục Lôi ắt sẽ khó tránh khỏi phải kiên nhẫn chịu đựng “Những oanh tạc đầy mệt mỏi” của vị bạn hữu này.
Ngày nọ, ngài ấy từ Bắc Bình vòng qua Định huyện về nhà. Tôi hỏi ngài ấy: “Lần này cha có lẽ sẽ lại gặp linh mục Ch.N chứ!”. Ngài ấy vô cùng hài hước nói: “Chiếc thùng rác cha lại được thu hoạch lớn rồi!”.
– Linh mục Lôi dùng từ “Thùng rác” để ví người có “Khí phách”, là người có thể “Nhẫn nhục chịu đắng nuốt cay” .
“Nhưng, linh mục, ngài việc gì mà phải làm khổ mình như thế? Con không đồng ý phong thái “Tự tìm khổ não” này của ngài!”
Ngài ấy lại lấy lời của Thánh Phaolo đáp trả tôi: “Đem than hồng chất trên đầu họ” ( Rm 12,20) .
LỄ GIÁNG SINH MÙA HẠ
Nhắc tới Lễ Giáng Sinh, rất tự nhiên sẽ liên tưởng tới “Cảnh tuyết”. Từ rất lâu rồi, Giáo Hội đã định ngày 25/12 hằng năm để kỉ niệm sự giáng sinh của Chúa Giêsu. Tháng 12 chính là thời gian tuyết rơi ở ôn đới và hàn đới. Vì thế, ngày Chúa Giáng Sinh còn được gọi là “Lễ Giáng Sinh bạc”.
Đối với “Lễ Giáng Sinh Mùa Hạ”, trong tâm khảm của giáo dân bình thường, vẫn tương đối xa lạ. Tôi lần đầu tiên nghe tới danh từ này, là từ chính miệng của linh mục Lôi, sau khi gia nhập Hội Dòng Gioan Tẩy Giả. Đại khái là ngày hai mươi bốn tháng sáu, năm thứ hai mươi Dân Quốc, ngày sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả, linh mục Lôi đã nói ra danh từ này trong bài giảng thánh lễ. Ngài ấy nói: “Giáo Hội chỉ mừng kính sinh nhật của ba người: Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Gioan Tẩy Giả. Bởi vì chỉ có ba người này khi sinh ra thì đã là người thanh khiết, tức tràn đầy sự sủng ái của Thiên Chúa. Chúa Giêsu và Đức Mẹ thì không cần nói rồi, còn Thánh Gioan Tẩy Giả thì sao? Ngài ấy trước khi sinh ra,cũng đã tràn đầy thánh thần rồi! Kinh Thánh chẳng phải đã viết: “Đã tràn đầy Thánh Thần từ trong bụng mẹ” (Lc 1,15)”.
Thời lượng xuất hiện và địa vị của Thánh Gioan Tẩy Giả trong Phúc Âm chỉ đứng sau Chúa Giêsu. Ngay cả sử gia Do Thái Josephus cũng sùng bái sự vĩ đại của Gioan Tẩy Giả.
Trong Giáo Hội thời kỳ đầu, tên tuổi của Gioan Tẩy Giả còn vang dội hơn cả Đức Mẹ Maria. Vì thế, trong lễ nghi của Giáo Hội, mừng kính sự ra đời của Thánh Gioan Tẩy Giả còn long trọng hơn sự ra đời của Đức Mẹ, hiệu là “Lễ Giáng Sinh Mùa Hạ”, để bổ sung và làm rạng danh “Lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu” vào mùa đông.
Giáo Hội tại sao lại biểu dương Thánh Gioan Tẩy Giả như vậy? Đầu tiên, là vì ngài ấy có cái sứ mệnh trọng đại: “Chuẩn bị con đường cho Đức Chúa” (Lc, 3,4). Ngài ấy là người mở đường cho Đức Kitô. Chúa Giêsu cũng đích thân biểu dương ngài ấy: “Phàm trong những kẻ do người phụ nữ sinh ra, chẳng có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả” (Mt 11,11). Chúa Giêsu còn nói ngài ấy là một vị vĩ nhân của thời đại cũ: “Từ thời ông Gioan Tẩy Giả, Nước Trời phải nỗ lực mà chiếm đoạt, kẻ mạnh sẽ được”. (Mt 11,12).
Kế đến, đó là vì phẩm cách của Gioan Tẩy Giả. Phong cách sống của ngài ấy, thái độ của ngài ấy với Chúa Kitô, hoàn toàn tỏ lộ thứ tinh thần mà mọi Kitô hữu cần phải có, thực sự xứng đáng làm gương mẫu cho chúng ta.
TINH THẦN CĂN BẢN CỦA THÁNH GIOAN TẨY GIẢ
Buổi tối ngày lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả năm đó, linh mục Lôi theo lệ tập trung các tu sĩ bắt đầu buổi nói chuyện ở dưới ngọn núi giả trong sân của Chân Phúc Viện. Bởi vì, hôm đó là lễ bổn mạng của Hội Dòng, chủ đề của buổi nói chuyện đương nhiên là những việc có liên quan đến Thánh Gioan Tẩy Giả. Linh mục Lôi mở đầu buổi nói chuyện liền hỏi mọi người: “Tinh thần căn bản của Thánh Gioan Tẩy Giả là gì?”
Thinh lặng ít phút, có một vị tu sĩ đã lên tiếng: “Tinh thần căn bản của Thánh Gioan Tẩy Giả là khổ tu: ngài ấy không uống rượu, thường giữ chay tịnh, ở trong hoạng địa, ăn châu chấu, uống mật ong hoang dã, mặc áo lông lạc đà…” Vị tu sĩ này “Như một cái máy” rập khuôn miêu tả sự khổ hạnh của Thánh Gioan Tẩy Giả.
Nhưng, linh mục Lôi nghe xong những lời nói thao thao của vị tu sĩ này, lắc đầu một cách vô thức, biểu thị sự không tán đồng.
Vị tu sĩ khác tiếp theo nhắc đến kiến giải mới, vị huynh đệ ấy nói: con nghĩ tinh thần căn bản của Thánh Gioan Tẩy Giả nằm ở chỗ “Dũng cảm”. Mọi người xem: ngài ấy thẳng thừng can gián Quốc Vương Hêrôđê, công khai chỉ trích Quốc Vương đã cưỡng chiếm vợ của anh em mình; còn đối với những người Pharisêu kiêu ngạo, những quân nhân phóng đãng, những người thu thuế tham lam, ngài ấy cũng dám thẳng thừng trách cứ những hành vi vô đạo đức của bọn họ. Hơn nữa, Chúa Giêsu cũng nói Gioan Tẩy Giả không phải là “Cây sậy” phất phơ trong gió, mà là một cường nhân “Cương trực, không a dua nịnh bợ”.
Linh mục Lôi nghe rồi, mỉm cười xua tay: “Cũng không phải rồi!”
Vị tu sĩ thứ ba rất thông minh và cẩn thận đưa ra ý kiến thứ ba: “Con đoán! có phải là “Lửa ái” không ạ? Thánh Gioan Tẩy Giả tràn đầy tinh thần của Êlia, tựa như một đốm lửa, ngài ấy đi khắp nơi gào khàn cả cổ: “Hãy mau hối cải! Nước Trời đến gần rồi” ( Mt 3,2)”.
Linh mục Lôi nói với anh ấy: “Vẫn chưa có đoán đúng rồi!”
Lúc này, mọi người cảm thấy có chút bối rối, nhìn chằm chằm nhau, không dám lên tiếng. Nhưng linh mục Lôi vẫn đang không ngừng hối thúc mọi người mau mau đưa ra đáp án chính xác.
Đột nhiên có một vị tu sĩ trẻ nói: con nghĩ tinh thần căn bản của Thánh Gioan Tẩy Giả là “Khiêm tốn”. Ngài ấy từng nói: “Chúa Giêsu phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3,30). Ngài ấy còn nói: “Tôi không phải là Đức Kitô, tôi chỉ là tiếng hô trong hoang địa...” (Ga 1,23). Tiếng hô này chỉ truyền giảng Đức Kitô, sau khi truyền giảng thì tự thân nhỏ lại và biến mất.
Linh mục Lôi nghe xong giơ ngón cái nói: “Tuyệt! Nói đúng rồi”.
Tại sao “Khiêm tốn” là tinh thần căn bản vậy? Là bởi vì khắc khổ, dũng cảm, lửa yêu và các nhân đức khác đều xây dựng nền trên “Khiêm tốn”, chúng là hoa quả do khiêm tốn sinh ra, không phải là căn nguyên. Người không có khiêm tốn, thì không biết khắc khổ; sở hữu khiêm tốn rồi thì chẳng còn màng bản thân, nhưng kiên quyết vì Thiên Chúa mà đối mặt với chân lý, qua đó hiện lộ sự kiên cường tin tưởng thiên chúa, đó là một trong những biểu hiện tình yêu đối với Thiên Chúa vậy! ….
Mọi người chúng tôi nghe xong kết luận của linh mục Lôi thì đều hít thật sâu như trút được gánh nặng.
LO TRƯỚC VUI SAU
Tác phong “Làm trước và dạy người ta làm như vậy” cùng với tinh thần “Yêu người chân thành” của linh mục Lôi, luôn khiến cho chúng tu sĩ xúc động sâu sắc. Nhưng mọi người ngày thường đều không tiện lấy ngôn từ để biểu thị tình cảm này, chỉ biết lấy “Vâng phục” và “Công việc” để biểu thị sự yêu quý đối với linh mục Lôi mà thôi.
Ngày hai mươi chín tháng bảy là lễ kính Thánh Vinh Sơn Phaolo, là ngày bổn mạng của linh mục Lôi, cũng chính là cơ hội tuyệt vời để mọi người bày tỏ “Tình cảm” này với linh mục Lôi. Trước biến sự ‘thất thất”, dường như mỗi năm, đều có buổi chúc mừng long trọn tại Chân Phúc Viện. Trong buổi chúc mừng thường có diễn thuyết, ca hát, làm thơ, hát đôi, xiếc ảo thuật,… thậm chí còn tập vở kịch nói lên đến hai tiếng đồng hồ. Tất cả những hành động này đều thể hiện sung mãn sự cảm kích và yêu mến của mọi người đối với linh mục Lôi. Ngài ấy cũng biết rõ sự chân thành của chúng tu sĩ đối với ngài ấy, vậy nên ngài ấy chẳng bao giờ cấm chỉ, mà để mọi người mặc sức vui mừng biểu tả.
Trong nhiều lần diễn thuyết chúc mừng, người đại diện dường như mỗi lần đều thay mặt mọi người đề nghị linh mục Lôi bảo dưỡng thân thể, tiết kiệm sinh lực, đừng để thể lực tiêu mòn quá nhiều. Khi linh mục Lôi ở đó đáp lời, luôn là nói cảm ơn ý tốt của mọi người, nhất định sẽ chú ý sức khỏe bản thân. Nhưng, sau lễ chúc mừng, linh mục Lôi vẫn là “Làm theo ý mình”, vẫn “Gian lao khổ hạnh” như cũ, không chút miễn trừ cho bản thân.
Trong một buổi lễ mừng ngày 29/7 năm đó, người đại diện đưa ra yêu cầu cụ thể cho linh mục Lôi: xin ngài sau này phải dùng xe máy thay cho xe đạp, để tiết kiệm thời gian và thể lực. Mọi người đối với kiến nghị này đều đáp trả bằng tràng pháo tay nhiệt liệt. Linh mục Lôi tại chỗ đáp ứng, khi tới sáu mươi tuổi, tôi sẽ đổi qua dùng xe máy. Nhưng cho tới khi qua đời (64 tuổi), ngài ấy vẫn chẳng có thực hiện lời hứa này, ngài ấy vẫn luôn luôn là dùng xe đạp để di chuyển.
Khi linh mục Lôi sáu mươi tuổi, tôi đã nhắc riêng ngài ấy phải thực hiện lời hứa. Ngài ấy cười nói: “Con à! Con không nhớ câu cách ngôn của Phạm Trọng Yêm sao? – Lo trước cái lo của bách tính, vui sau cái vui của thiên hạ”. Trước đây mọi người chưa có dùng xe máy, nếu cha tiên phong sử dụng phương tiện giao thông thích hợp hơn, mọi người sẽ cảm thấy nhìn không quen vậy.
“ Không phải như thế!” tôi đáp.
“Cha không nghi ngờ sự thành tâm của mọi người, nhưng cha nói với con: “Vui sau cái vui của thiên hạ” thì luôn an toàn hơn”.
VIỆC QUA RỒI HÃY ĐỂ NÓ QUA ĐI
Người cao thượng, là người vẫn giữ được sự thuần khiết và sự chân thành của thời thơ ấu. (Lí Lâu Hạ)
Linh mục Lôi rất tán thưởng lời này của Mạnh Tử. Khi giảng giải Thánh Kinh cho chúng tôi, để làm rõ câu nói “Nếu anh em không trở nên trẻ nhỏ, thì không thể vào Nước Trời” (Mt 18,3), ngài ấy thường lấy câu này của Mạnh Tử để chứng minh, để khai triển chân lý.
Lần ấy nghe linh mục Lôi giảng, tôi đặc biệt cảm động, không phải vì lý luận của ngài ấy cao diệu, cũng không phải vì tài ăn nói của ngài ấy lôi cuốn, mà là vì cử chỉ cảm động của ngài ấy. Trước khi ngài ấy giảng đạo lí này không lâu, Chân Phúc Viện nổi lên một trận sóng gió không nhỏ. Đỉnh điểm của cuồng phong này đánh thẳng vào linh mục Lôi. Ba ngày liền, không khí ngột ngạt bao trùm Tu viện. Con tim của linh mục Lôi như vỡ vụn, ngài ấy nói riêng với tôi: “Con tim của cha dường như rơi xuống địa ngục rồi!” Nhưng, buổi chiểu ngày thứ ba bỗng trời yên biển lặng, mặt trời ấm áp lại chiếu xuống Chân Phúc Viện. Ngày hôm sau, linh mục Lôi đã hát thánh lễ trọng thể, ngài ấy dùng giọng điệu hưng phấn, giảng một bài đạo lý về “Thường vui vẻ”.
Theo tôi, linh mục Lôi giống như một đứa trẻ vậy, khi bị người khác la rầy, cũng khóc cũng buồn. Nhưng khi sự La rầy đó qua đi rồi, ngài ấy lièn sẽ quên đi tất cả –tha thứ– cười nói vui đùa với người la rầy ngài ấy như trước đây.
Bí quyết mà linh mục Lôi xử lý sóng gió lần này là: “Việc qua rồi hãy để nó qua đi!” ngài ấy chẳng trách cứ một ai, càng không có trừng phạt bất cứ tu sĩ nào, ngài ấy đối xử với người đầu têu sóng gió này, càng biểu lộ sự thân ái còn hơn trước đây.
Thực sự, tôi đã nhìn thấy một “Trái tim trẻ thơ” trên người linh mục Lôi.
CHỊU THƯƠNG CHỊU KHÓ (chịu khổ chịu oán)
Khi tôi mới gia nhập dòng, tôi vẫn là một đứa trẻ to xác chưa hiểu nhiều thế sự, đối với danh ngôn xử thế mà linh mục Lôi thường nói, luôn không thể hoàn toàn lĩnh hội, có khi còn hiểu ngược lại. Ví dụ, linh mục Lôi thường khuyên chúng tôi, làm việc cần phải có tinh thần “Chịu khổ chịu oán”. Tôi lúc đầu đối với lời này liền có hai sự nhầm lẫn.
Đầu tiên, tôi nghĩ tinh thần “Chịu khổ” của linh mục Lôi là thật, tác phong “Chăm chỉ, siêng năng, bền bỉ”, tinh thần làm việc không biết mệt mỏi của ngài ấy là rõ như ban ngày. Nhưng đối với “Chịu oán” thì không nhất định. Tôi đã nghĩ linh mục Lôi là người sẽ chẳng bao giờ phải gặp sự ấy.
Trước khi tôi nhập dòng, trong trường học Bắc Bình ở quê hương chúng tôi, linh mục Lôi Minh Viễn giống như là nhân vật chính trong các câu chuyện truyền kỳ, lưu truyền trong đám đông giáo hữu, và cũng lưu truyền trong xã hội. Hàng ngàn hàng vạn người kính phục, yêu mến, ca ngợi ngài ấy, lấy việc được một lần gặp gỡ ngài ấy làm điều may mắn và hạnh phúc, lấy việc được nghe ngài ấy nói chuyện là niềm vui. Bốn chữ “Tiếng lành đồn xa”, linh mục Lôi thực sự hoàn toàn xứng đáng.
Sau khi tôi nhập hội dòng, cả ngày tắm gội trong nền giáo dục tốt đẹp của linh mục Lôi; thứ nhìn thấy là sự kính yêu của chúng tu sĩ và giáo hữu đối với ngài ấy; và những lời bình luận đối với ngài ấy mà chúng tôi nghe thấy, đều là những lời tốt đẹp. Trong ý thức ngây thơ và trực giác của tôi, linh mục Lôi sẽ không có cơ hội “Chịu oán”.
Có lần trò chuyện riêng với linh mục Lôi, tôi đã thổ lộ suy nghĩ ấu trĩ này. Linh mục Lôi sau khi nghe thì nhìn tôi mỉm cười, chẳng có thẳng mặt chỉ trích ý kiến của tôi, chỉ nói với tôi: “Nhân sinh tại thế, cơ hội “Chịu oán” luôn nhiều hơn cơ hội “Chịu khổ”. Con hiện tại có thể không tin, nhưng không lâu nữa con sẽ hiểu thôi”.
Quả nhiên, không lâu sau đó, tôi từ miệng của linh mục Lý Hiểu Nhiên được biết, những thành tựu trong quá khứ của linh mục Lôi đều là dùng “Chịu khổ”, và đặc biệt là “Chịu oán” mà đổi lấy.
Sau này, trong thời gian tôi và linh mục Lôi sống chung với nhau, tôi phát hiện lời nhận xét này quả thực không sai.
CHỊU KHỔ DỄ, CHỊU OÁN MỚI KHÓ
Linh mục Lôi được biết đến như là một vị trưởng lão với “Lý trí mẫn tuệ và ý chí kiên cường”, hoàn toàn không phải là người có “Trái tim như sắt đá, ác nghiệt vô tình”. Dưới con mắt theo dõi của người đời, con tim thịt tươi ấy của ngài đã không ít lần thổn thức và rơi lệ,
Một lần, có mấy tu sĩ làm tổn thương con tim ngài, ngài ấy đau không thành lời, tựa như ngất xỉu bất tỉnh nhân sự vậy. Ngài ấy nói riêng với tôi: “Cha! quá khứ vì tuyên truyền vận động thành lập giáo phận bản địa, mặc dù gặp phải rất nhiều phản đối và mỉa mai, nhưng chưa hề cảm thấy đau như hiện tại…”
Tôi khi ấy vẫn chưa lãnh hội qua mùi vị của “Chịu oán”, tính tình vẫn còn trẻ con, ăn nói bộp chộp chẳng nghĩ suy kiêng dè, đã mở miệng cách bản năng nói với linh mục lôi: “ Cha à! Việc cỏn con này có là gì đâu!” Linh mục Lôi không có trả lời tôi, cố nén nước mắt đi làm những công việc hằng ngày.
Hai năm sau, tại Tuyên Hóa, Chakhar đã thành lập một Chân Phúc Viện lâm thời. Tổng cộng chỉ có 7 tu sĩ ở đó, phân thành tu viện lớn nhỏ học thần học, triết học và tiếng La Tinh. Ngoài ý muốn, mọi người đều đề cử tôi làm “Huynh trưởng” – kỳ thực, tôi là người nhỏ nhất trong bảy người. Như câu tục ngữ nói: “Bò bê mới sinh không sợ hổ”, tôi hai mươi mốt tuổi, lần đầu chủ trì một đoàn thể nhỏ, ắt có một chút tâm lý “Tự phụ”. Tinh thần “Làm trước và dạy người ta làm như vậy” của linh mục Lôi, cũng đã từ lâu nảy mầm trong tâm hồn tôi; nên tôi cũng vui vẻ nhận lời. Kỳ học thứ nhất, Chân Phúc Viện nhỏ bé, mọi người cảm tình dung hợp hài hòa, ở chung rất thân thiện, và nhận được rất nhiều lời có cánh của mọi người. Linh mục Lôi đã hai lần đến đây kinh lý, ngài ấy cũng khá hài lòng, và cho chúng tôi không ít lời động viên.
Mùa xuân năm 23 Dân Quốc, học kỳ thứ hai mới bắt đầu, vì một chuyện “Vặt vãnh” mà Chân Phúc Viện bé nhỏ náo loạn và tràn đầy sóng gió. Tôi bắt đầu thưởng nếm sự cay đắng của mùi vị “Chịu oán”, tâm hồn bé nhỏ của tôi thì yếu đuối như vậy, không chịu nổi một cú đánh, không chỉ quyết ý phải từ cái chức “Huynh trưởng”, mà “Ơn gọi” của tôi cũng đang bắt đầu dao động.
Lúc ấy, linh mục Lôi vì chạy xe đạp té gãy tay phải, đang trị liệu ở trong nhà giáo hữu Tô Mặc Lâm tại Thiên Tân – ông Tô là chuyên gia nối xương. Tôi viết cho linh mục Lôi một bức thư chuyển phát nhanh, xin gặp mặt trực tiếp nói chuyện, ngài ấy trả lời ngay “Mau đến!”
Tôi mang một con tim kích động và tan vỡ, lập tức vội đến Thiên Tân. Trong suy nghĩ của tôi lúc đó, trên thế giới tựa như chỉ có một việc mà thôi, chính là viết thương trong tâm hồn tôi. Tôi đã gặp linh mục Lôi với cái tay gãy, nhưng cũng quên luôn việc thăm hỏi tình trạng vết thương của ngài ấy, mà lập tức đem những bất mãn của tôi, với tất cả ý thức thổ lộ với ngài ấy. Ông già ấy nhẫn nại lắng nghe, cũng gật đầu lia lịa, biểu hiện của sự đồng cảm, cuối cùng tôi hướng về ngài ấy và kiên quyết từ chức “Huynh trưởng”, nhưng không dám thổ lộ sự khủng hoảng trong “Ơn gọi” của bản thân.
Linh mục Lôi lấy tay trái xoa đầu tôi, mặt mày vui vẻ, cười rất “Thoải mái”: “Con à!” ngài ấy nói một cách thân mật: “Cha hiểu tâm tình và sự thống khổ của con, hãy nhớ kỹ: chịu khổ dễ chịu oán mới khó, “Chịu oán” chính là công phu căn bản để nên Thánh. Cha đã sớm dự liệu con sẽ có “Ngày này”, cha vẫn phải nói với con, đây không phải là lần cuối cùng, cũng không phải là lần lớn nhất, đó là “Chuyện thường ngày như cơm bữa vậy”. Nhưng, sau này khi đối nhân xử thế, không chỉ phải “Đơn sơ như bồ câu” mà cũng phải “Khôn ngoan như rắn” vậy”. Lời này “Chịu khổ dễ chịu oán khó” tựa như một trận gió mát, đã thổi tan mây đen trong lòng tôi, đồng thời cũng đẩy nhanh quá trinhg hồi phục thứ tinh thần an yên nhiệt huyết mà tôi đã mất đi.
Sau cuộc gặp gỡ, tôi vừa như thay một trái tim khác — bình an và hưng phấn trở về Chương Hóa.
VIỆC VUI TRONG CUỘC ĐỜI NHIỀU LẮM
Trước đây, tác giả Kim Thánh Thán bình Tây Sương Ký có nhắc tới ba mươi ba “Thời khắc vui vẻ”. Ngày trước đọc “Trung Phú” lại xem thấy Lâm Ngữ Đường nhắc đến hai mươi bốn “Việc vui vẻ”, khiến tôi nghĩ tới linh mục Lôi Minh Viễn với “Thường vui vẻ”, “Việc vui vẻ” trong cuộc đời đâu chỉ có ngàn vạn, “Việc vui vẻ” đơn giản chính là việc không có tội lỗi vậy (giống như bóng tối chính là sự khuyết phạp ánh sáng vậy).
Việc vui vẻ mà linh mục Lôi tán thành, trong đó cũng không thiếu những việc đầy “Nhân đạo” nhưng cũng rất nhiều chuyện “Vượt quá cả tình người”. Tiện bút không theo thứ tự kể ra vài câu chuyện theo như trí nhớ dưới đây, mong phần nào có thể diễn tả một chút góc nhìn của linh mục Lôi:
- Linh mục Lôi nói với chúng tôi: đời người có vài ba tri kỷ, mùa hè ngồi tại chỗ dưới bóng cây công viên; mùa đông ngồi trong thư viện, quây quần bên lò lửa, một chiếc khăn vải nỉ, một cốc trà thơm, vài câu chuyện tri âm. Thực sự là việc đại khoái của cuộc đời vậy.
- Dưới ánh nắng gay gắt, trên lối mòn gồ ghề gập ghềnh bụi đất tung bay, đạp xe đi qua một đoạn đường, mồ hôi nhễ nhại, miệng khô lưỡi cháy, nghỉ xả hơi dưới tán cây, ăn một miếng dưa hấu, sau đó mở Kinh Thánh bỏ túi, nói chuyện với Giêsu. Càng là một việc thống khoái biết bao.
- Linh mục Lôi sau khi nghe tin hảo bạn hữu của ngài, linh mục Hai Dương bất ngờ qua đời trên đường đi làm sứ vụ, ngài ấy đã dơ ngón tay cái, và nói một cách say sưa khẳng khái: “Tuyệt vời, cái chết của linh mục Hai Dương! Chết thật tuyệt vời, chết thật thống khoái. Chết trên đường làm sứ vụ là việc đại thống khoái của cuộc đời”.
- Khi linh mục Lôi ở Thiên Tân truyền giáo, ngài ấy không chỉ ra sức thi hành các công việc tôn giáo đơn thuần, mà còn đóng góp nhiều cho sự nghiệp xã hội, như Báo Ích Thế,… Ngài ấy nói với chúng tôi: “Một ngày của cha: làm việc, giảng đạo, tiếp khách, viết thư, thăm giáo hữu,… sau mười giờ đêm, khéo léo chối từ khách khứa, đi vào nhà nguyện, dưới ánh sáng loe loét của ngọn đèn chầu, một mình trò chuyện với Giêsu, đó là thời khắc “Vui vẻ” nhất trong ngày vậy”.
- Đối với linh mục Lôi mà nói, Tắm buổi sáng còn cần thiết gấp bội so với việc kẻ nghiện cần thuốc phiện, đơn giản đã trở thành thói quen nên ghiền. Ngay cả khi phiêu bạt trên chiến địa, ngày đông lạnh giá, ngài ấy vẫn cứ là theo ý mình mà làm việc. Giữa tháng ba năm thứ hai mươi tám Dân Quốc, khi linh mục Lôi thống lĩnh chúng tôi cứu hộ thương binh trong núi Trung Tiên, ngài ấy mỗi buổi sáng đều tắm nước lạnh trong suối nhỏ. Một ngày, không khí lạnh đi qua, nước suối đóng băng. Ông già ấy quả là diệu tưởng thiên khai, đem suối băng đập thành một hố lớn, nhảy xuống tắm như chưa hề có gì xảy ra. Có lần bị người khác phát hiện, ngài ấy vẫn giải thích cách hài hước: “Anh em không biết, tắm như này, sưởi ấm ở dưới băng, còn gì vui hơn nữa chứ!”
- Ở Chân Phúc Viện An Quốc có một biểu ngữ kỳ quái, khiến khách tham quan nhìn thấy, không thể không ngẩng mặt cười lớn. Biểu ngữ này là “Trong cả năm, mùa nào là thời kỳ hứng thú nhất của anh em? – Trung Phục (ngày hè nóng nhất) và “Tam Cửu” (ngày đông lạnh nhất). Câu nói này không chỉ dán trên tường, mà còn vang vọng trên môi linh mục Lôi, và cũng biểu hiện không ngừng trên hành vi của ngài ấy. Mỗi năm khi tới “Trung Phục”, sau ăn sáng và trước công việc, linh mục Lôi thường dùng giai điệu hưng phấn này xướng lên: “Anh em à! Hôm nay đã là Trung Phục”. Mọi người dùng âm điệu cao hơn đáp trả: “Alleluia”.
- Khổng Tử nói “Người không biết mà không hờn dỗi” ấy là quân tử vậy. Linh mục Lôi lại tiến thêm một bước nữa, khởi đi từ góc độ của Phúc Âm đi xem “Cái hiểu lầm của người đời”, ngài ấy đối với sự ngộ nhận, không chỉ không giận hờn, mà còn cho là một việc hả hê lòng người. ngài ấy thường dạy chúng tôi, làm việc “Không thể phí sức mà không cầu tiến”, nhưng không phải sợ “Phí sức mà chẳng nên công cán gì”. Nền tảng sự lạc quan của ngài ấy là Thánh Ngôn của Thiên Chúa: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,11-12).
- Khi linh mục Lôi thống lĩnh đội cứu binh tham gia kháng chiến, đã là một lão nhân ngoài sáu mươi. Ngài ấy tự gọi mình là thanh niên “Lục tuần”, nhưng cuối cùng tháng năm cũng chẳng buông tha con người. Trên con đường đá quanh co gập ghềnh khúc khuỷu của núi Thái Hành, trên vai gánh cái cáng thương rất nặng, ngài ấy đã tỏ ra rất mệt mỏi. Có một vị tướng quân nhìn thấy vậy, liền nói với ngài ấy: “Linh mục Lôi, cha quá vất vả rồi!” linh mục Lôi đáp: “Cá nhân chịu chút khổ, đổi lại sự phục hưng dân tộc, quả thực là đáng, quả thật quá sung sướng rồi”.
Như đã biết, linh mục Lôi vốn dĩ là tu sĩ Tu Hội Truyền Giáo Vinh Sơn. Vì vận động khởi xướng thành lập “Giáo hội địa phương’ và loại bỏ “Quyền bảo hộ của Pháp”, nên ngài ấy sớm đã mất đi sự tín nhiệm nơi những bề trên thượng cấp trong Tu Hội Truyền Giáo Vinh Sơn. Điều này đã khiến ngài ấy bị buộc rời khỏi Trung Hoa trở về Âu Châu. Ngài ấy tự ví von gọi đây là “Cuộc lưu lày Babylon” của riêng ngài ấy. Nếu không phải giám mục Tôn Đức Trinh, Giám mục bản địa đầu tiên mời ngài trở lại, thì linh mục Lôi đơn giản là chẳng có hy vọng trở lại Trung Quốc.
Sau khi theo giám mục Tôn trở về Trung Quốc, các hoạt động của ngài ấy vẫn chịu sự kiểm soát, gần như là “Giam lỏng” vậy. Mặc dù như thế, ngài ấy vẫn trung thành với “Ơn gọi”, chẳng hề manh nha ý định “Rời khỏi Hội Dòng”. Việc thành lập Dòng Gioan Tẩy Giả, việc huấn luyện các tu sỹ, mặc dù là do một tay linh mục Lôi sắp xếp, nhưng thời kỳ đầu ngài ấy vẫn dùng thân phận “Tu Sĩ Hội Truyền Giáo Vinh Sơn”, thay mặt giám mục Tôn quản lí Hội dòng. Trên thực tế, linh mục Lôi là bất khả phân với Hội dòng, bởi tình cảm và sự liên hệ của ngài ấy với các tu sỹ của hội dòng còn sâu dày hơn cả máu mủ ruột già. Do đó, tu sĩ của bổn Hội đã hơn một lần chính thức hoặc phi chính thức yêu cầu ngài “Chuyển sang bổn Hội”, chính thức làm Hội trưởng của Hội dòng. Mỗi lần như thế ngài ấy đều thẳng thừng từ chối, và căn dặn chúng tôi: “Ơn gọi đại sự, không thể tùy ý xem nhẹ; nếu không có chỉ thị minh nhiên của Thiên Chúa, thì không được tùy tiện thay đổi”.
Giáng Sinh năm thứ 22 Dân Quốc, những tu sỹ nòng cốt của bổn hội theo luật long trọng phát nguyện trọn đời. Cơ hội này đã thúc đẩy linh mục Lôi “Chuyển qua bổn hội”. Vì sự tồn tại của hội dòng, cũng như lợi ích to lớn cho giáo hội Trung Quốc, đại diện tòa thánh thường trú tại Trung Quốc, Giám mục Giáo phận An Quốc Tôn Đức Trinh, và các bạn hữu khác của linh mục Lôi,… đều thúc dục ngài ấy mau chóng đưa ra quyết định “Chuyển sang bổn hội”. Đương nhiên, sự khẩn khoản của chúng tu sĩ bổn hội cũng đã góp phần không nhỏ, khiến linh mục Lôi sau thời gian dài cầu nguyện, cuối cùng cũng đã nhận lời. Nhưng ngài ấy nói với vị đại diện Tòa Thánh: “Đây không phải ý nguyện của con, mà là mệnh lệnh của cha, cha chính là đại diện Thiên Chúa vậy!”.
Như thế, linh mục Lôi lần lượt xin Thánh Bộ Tòa Thánh và Tổng Hội Tu Hội Truyền Giáo Vinh Sơn “Rời khỏi Tu Hội Truyền Giáo và chuyển sang Hội Dòng Gioan Tẩy Giả”. Thư chấp thuận của Thánh Bộ và Tu Hội Truyền Giáo Vinh Sơn rất nhanh thì đã nhận được (Ngày 22/9), cùng kèm theo rất nhiều lời động viên cổ vũ. Thánh Bộ cũng phá lệ miễn cho linh mục Lôi làm tập sinh theo quy định của hội dòng mới, trực tiếp tuyên khấn vĩnh viễn, và chính thức phê chuẩn ngài ấy làm hội trưởng đầu tiên của hội dòng. Chẳng cần phải nói, chúng ta cũng có thể tưởng tượng tin tức này đã gây chấn động Chân Phúc Viện như thế nào!
Lễ vọng Giáng Sinh cùng năm, linh mục Lôi và bốn tu sĩ cốt cán của bổn hội (Khải Chi, Thiên Thọ, Văn Nguyên, Đại Bằng) đã cùng nhau phát nguyện vĩnh khấn. Từ đây, linh mục Lôi tự gọi hoặc ký tên là “Tiểu đệ Vinh Sơn”.
SỰ HÀI HƯỚC CỦA LINH MỤC LÔI MINH VIỄN
Khi linh mục Lôi 11 tuổi, ngài ấy đã nhìn thấy họa ảnh của linh mục Đổng Văn Học, một linh mục truyền giáo đã tử đạo tại Trung Quốc, cũng như những bức ảnh phong cảnh Trung Quốc. Trong tâm hồn bé nhỏ của ngài ấy khi ấy, đã trồng xuống hạt giống ao ước trở thành “Người Trung Quốc”. Linh mục Lôi hai mươi bốn tuổi, đến Trung Quốc, chính là lần thứ hai Liên Quân Bát Quốc xâm chiếm Trung Quốc. Ngài ấy nhìn thấy người ngoại quốc ức hiếp người Trung Quốc, thì căm phẫn vô cùng, và thề phải đứng về phía người Trung Quốc, phải làm một người Trung Quốc. Ngài ấy tức tốc học ngôn ngữ Trung Quốc, dùng bút lông viết chữ Trung Quốc, mặc phục trang Trung Quốc, sử dụng đũa ăn cơm. Ngài ấy không dùng ký tự Rôma học tiếng Trung, mà là đọc sách Trung Quốc: ngài ấy thuộc làu Tứ Thư như cháo chảy. Ngoài mắt xanh mũi lõ là không có biện pháp thay đổi, ngài ấy gần như hoàn toàn là người Trung Quốc rồi.
Năm thứ hai mươi hai Dân Quốc, khi Trường Thành kháng Nhật, linh mục Lôi thống lĩnh hơn ba mươi tu sĩ và hơn hai trăm giáo dân cấp cứu thương binh tại tiền tuyến. Ngày nọ, một ký giả chiến trường làm phóng sự, cũng đem linh mục Lôi bắt vào ống kính. Khi quay, ký giả xin linh mục Lôi tùy ý nói vài câu. Ngài liền nảy ý tưởng, đã nói ra một câu nói cực tao nhã và hài hước, thuận theo thế tay phất phơ rất tự nhiên, xuất khẩu mà nói: “Đừng nhìn cái mũi của tôi (Lấy tay chỉ chóp mũi), cũng đừng nhìn mắt của tôi (Chỉ mắt phải); phải nhìn thấu tấm lòng của tôi (Chỉ dưới ngực), tôi là một người Trung Quốc thuần túy!”
“Người Trung Quốc” đối với linh mục Lôi là tên gọi vinh quang vô cùng thuận tai. Nhớ cái ngày 29/7/26 Dân Quốc, trong đại hội mừng công tại Huyện An Quốc Bắc Bình, Huyện trưởng Trương Ngưỡng Văn hỏi hàng vạn dân chúng dưới đài: “Linh mục Lôi là người nước nào?” — người dưới đài đều nhất mực rần rần hô vang: “Người Trung Quốc”.
Linh mục Lôi vui mừng vô cùng, ngài ấy bắt đầu diễn thuyết: “Vâng! Tôi là người Trung Quốc, tôi yêu Trung Quốc chúng ta…”
Nhưng, nếu có người không biết điều, gọi ngài ấy một tiếng “Người nước ngoài”, ngài nhất định không chịu nhẫn nhịn, mà lập tức phải chỉnh sửa anh ta liền.
Lần nọ, linh mục Lôi từ Nhà Thờ Huyện An Quốc đạp xe về nông thôn thị sát giáo vụ. Đi qua thôn nọ, một thiếu niên bên đường hét lớn: “Quỷ Tây Dương, người ngoại quốc, xem Quỷ Tây Dương kìa!” Linh mục Lôi lập tức thắng xe dừng lại, đi tới trước mặt chàng thiếu niên, và nói một cách rất khách khí: “Cháu à! Cháu năm nay bao tuổi rồi?” chàng thiếu niên đáp: “Mười bảy tuổi”. Linh mục Lôi nói giọng thấp: “Trước khi cháu đến Trung Quốc, ta đã là người Trung Quốc rồi!”
Nếu ví hình dáng của người Trung Quốc là một viên ngọc, thì mắt xanh mũi lõ chính là những tỳ vết của viên ngọc mang tên “Lôi Minh Viễn-Người Trung Quốc”, và đây cũng là thứ mà ngài ấy dù rất muốn nhưng cũng vô phương loại bỏ.
Mùa đông năm hai mươi ba, Dân Quốc, ngài ấy theo lời mời của giám mục Thành Ngọc Đường, giám mục Giáo phận Hồng Động Sơn Tây, tới giáo phận này hướng dẫn các nhân viên thánh chức, nam nữ tu sĩ, giáo dân tĩnh tâm, luyện tập nhân đức thiêng liêng. Ngài ấy chẳng màng sự phản đối của các tu sĩ bổn hội, mà như cũ đạp xe lao thẳng về phía trước. Từ An Quốc Hà Bắc tới Hồng Động Sơn Tây, phải đi hàng trăm km đường núi, còn phải đi qua Nương Tử Quan, một nơi hiểm yếu của núi Thái Hành.
Suốt quãng đường bình an vô sự, nhưng khi sắp tới đích rồi, linh mục Lôi vì gấp rút lên đường, nên như thường lệ vẫn hết mình lao nhanh xuống con dốc, nhất thời phanh xe không hoạt động, té rơi xuống khe núi, gãy tay phải, cũng trầy sước cả sống mũi. May mắn là bạn đường, tu sĩ Đại Bằng kịp thời tới, lập tức đỡ ngài ấy dậy, tìm người khiêng ngài ấy tới Huyện Hồng Động cấp cứu, mới tránh khỏi nguy hiểm tới tính mạng.
Linh mục Lôi mặc dù bị thương, nhưng vẫn vui vẻ chấp nhận những đau tớn, và tận tâm hoàn thành công việc hướng dẫn tĩnh tâm. Ngài ấy lần lượt nói đùa với những người đến thăm: “Bây giờ cha thật sự thành người Trung Quốc rồi, mũi đã bị mòn đi một nửa rồi!”.
Sáu năm sau, linh mục Lôi bị “Bệnh vàng da”, và vì bệnh này mà qua đời. Khi ngài trọng bệnh vạn phần đau đớn, nhưng nó vẫn không thể diệt đi cái tác phong “Thường vui vẻ” của ngài ấy, ngài ấy thường nói với các bạn hữu tới thăm: “Thời gian này, cha đích thực là người Trung Quốc rồi, da của cha còn vàng hơn cả da của người Trung Quốc thuần chất nữa”.
Tháng mười một năm hai mươi sáu Dân Quốc, chúng tôi theo quân đoàn III trung ương ở Tân Quan, là cánh quân đóng trại ở phía bên phải Nương Tử Quan, Sơn Tây. Sau hai tuần khổ chiến ngoan cường chống địch, mặc dù thương vong vô cùng nghiệm trọng, nhưng bên phía chúng tôi vẫn kiên cường giữ trận địa, không chút thối lui.
Trung tuần tháng mười một, quân ta ở chính diện Nương Tử Quan buộc phải rút lui, quân đoàn III của tôi ở Tân Quan rơi vào trong sự bao vây tứ phía của địch. Nửa đêm ngày mười sáu, theo lệnh của bộ chỉ huy, đột phá vòng vây. Đội cứu thương chúng tôi theo bộ chỉ huy sư đoàn hành quân cấp tốc một đêm nửa ngày. Trưa ngày mười bảy, thực sự quá mệt mỏi rồi. Sư trưởng cho phép mọi người nghỉ ngơi chốc lát tại một thôn nhỏ.
Khi mọi người đang nghỉ ngơi lẫn lộn dưới tán cây, bên tảng đá, trong góc tường, … thì đột nhiên một trận la hét tấn công kinh hoàng phá vỡ mộng đẹp của chúng tôi. Thì ra một nhóm kỵ binh của địch đã đuổi kịp chúng tôi. Thế là tiếng súng trường, tiếng súng liên thanh, tiếng lựu đạn, tiếng người hét ngựa hí vang thành một dải, loạn thành một mớ. Mọi người từ trong mộng kinh hoàng tỉnh dậy, ném bỏ đồ đạc, chẳng màng gì cả, chạy tứ tán thục mạng. Tôi và tu sĩ Hi Mỹ cũng lần lượt bỏ lại bốn con ngựa đang cố gồng gánh đống lương thực, thuốc men và cả đồ lễ của linh mục Lôi, mà điên cuồng co giò theo mọi người chạy trốn. Trong lúc trốn chạy, nhìn thấy linh mục Lôi trong đám đông phía trước đang bước đi như bay, lòng tôi cũng như chút được gánh nặng, nhẹ nhõm bội phần.
Chúng tôi một hơi chạy hơn mười cây số, đám kỵ binh địch đuổi tới cũng đã bị binh đoàn vũ trang, công binh, đặc vụ,… của sư đoàn tiêu diệt, những kẻ tay không tấc sắt chúng tôi mới được thoải mái một chút.
Lúc chúng tôi liều mạng chạy tứ tán, trên có máy bay địch quẫy nhiễu, đằng sau có đạn pháo tấn công, có một sĩ quan nói đùa với linh mục Lôi: “Lão đội trưởng, linh mục Lôi, sợ không?” linh mục Lôi dùng lời cực kỳ thoải mái và hài hước đáp: “Đạn pháo máy bay của địch, tôi cảm thấy không đáng sợ, nhưng mấy người chạy nhanh quá, tôi đuổi theo không kịp, tâm lý có chút hoảng loạn á!”
Lời nói của linh mục Lôi không chỉ hài hước dí dỏm, có khi cũng thật mỉa mai trào phúng, khiến người nghe mặt đỏ tía tai. Nhưng, mọi người đều biết ngài ấy lấy “Chân thành” đối nhân xử thế, chẳng hề dùng những lời trào phúng để gây gổ, gây xích mích với người khác.
Nhớ trong thời gian kháng Nhật, có một thanh niên hai mươi tuổi, trình độ trung học, đến tham gia đội cứu thương do linh mục Lôi thành lập. Vị thành niên này, tự cho mình có “Thiên phú” bất phàm, anh ta cho rằng công việc mà linh mục Lôi giao cho không xứng với “Thân phận học sinh trung học” của mình. Anh ta đã thẳng thắn nói với linh mục Lôi: “Linh mục, cha nên biết, tôi không phải người bình thường”. Linh mục Lôi cười nói: “Oh, đúng vậy! Bạn không phải là người phèn, bạn là người thạch cao!”
(Chữ “Phèn” và chữ “Phàm” trong tiếng Trung là từ đồng âm; chữ “Thạch cao” và chữ “Tự cao” trong tiếng Trung có âm đọc gần như giống nhau)”.
KỲ NGỘ LỄ GIÁNG SINH
Ngày Lễ Giáng Sinh năm hai mươi lăm, Dân Quốc, ở huyện ranh giới An Quốc tỉnh Hà Bắc, là một ngày đẹp trời và không khí chung quanh ngập tràn cái tông màu bàng bạc. Buổi sáng hôm ấy, giáo dân Công Giáo ở Tây Hương huyện An Quốc, đều bất chấp cơn gió bắc đang gay gắt thổi, đạp lên nền tuyết trắng mềm mại, ôm ấp trong mình một con tim ấm nồng rực lửa, cùng nhau tiến về phía nhà thờ Tây Quan của huyện.
Khi ấy, ở cửa tây của huyện, đột nhiên xuất hiện hơn năm mươi phạm nhân gông cùm xích xiềng lủng lẳng, và hơn mười vị cảnh sát vũ trang đầy đủ, trước sau trái phải bảo vệ từ mọi phía, đang chầm chậm đi về phía cửa tây.
Giáo dân Tây Hương đến nhà thờ tham dự Đại Lễ Giáng Sinh, nhìn thấy “Đội quân leng keng” này, thì cho rằng những người đó là những người bị kết án tử hình, đang trên đường đi ra ngoài phía cửa tây để thi hành án. Có một nữ giáo dân tâm tình tốt lành nói khe khẽ: “Trong ngày Lễ Giáng Sinh vui mừng như vậy lại đi xử bắn người, huyện trưởng thật không vui vẻ rồi!”
“Huyện trưởng Trương thật tốt! Ông ấy mấy ngày trước đích thân thống lĩnh hai mươi mấy cán bộ nhân viên truy bắt ba tên đại thổ phỉ. Những kẻ “Báo hại” tội ác tày trời này, khiến người dân Tây Hương bối rối bất an, sớm nên xử bắn. Lễ Giáng Sinh vì dân trừ hại, có cái gì không đúng? Tôi cảm thấy Trương huyện trưởng còn tích đức không ít á!” Một nam giáo dân không đồng ý với lời phàn nàn của nữ giáo dân nọ.
Chúng giáo hữu vừa đi vừa nói, bất giác đã tới cửa lớn của nhà thờ rồi.
“Kỳ quái!” một giáo hữu đứng ở ngường cửa nhà thờ, quay đầu trông ra xa nói: “Âm thanh leng keng, càng ngày càng gần!”
“Đội quân leng keng” đáng sợ này, sau khi ra khỏi cổng tây, chẳng có dọc theo đường lớn đi ra phía ngoài cổng tây, nhưng lại quẹo phải đi về phía Thánh Đường. Dưới cái nắng nhu hòa mát mẻ, trên khuôn mặt hốc hác thường ngày của bọn họ, không ngừng hiện lên một loại vui sướng khó nói nên lời.
Khi ấy, trước cửa lớn của Thánh Đường cũng xuất hiện một toán người, là một nhóm tu sĩ Gioan Tẩy Giả trong trang phục của bổn hội, đang vỗ tay chào đón “Đội quân leng keng” kia. Từ trong đám tu sĩ ấy, đột nhiên xuất hiện một ông già, trên bộ râu chữ bát vẫn còn vương lại vài giọt nước, cười tít mắt đi tới chào hỏi, nhưng lạ thay, chỉ nghe được tiếng reo hò vang dội: “Linh mục Lôi, xin chào ngài! Giáng Sinh vui vẻ!”
—- “Các bạn hữu thân mến, thật sự vui mừng khi xem thấy mọi người ở đây!” linh mục Lôi chấp tay hướng về phía bọn họ chúc mừng Lễ Giáng Sinh.
Theo sau lời reo hò chúc mừng này, nguyên là một bầu không khí tĩnh lặng. Một bộ phận giáo hữu đứng ở đó, cũng sững sờ, say sưa như xuất thần trông theo hai nhóm người này.
Tôi lúc đó cũng đứng trong nhóm tu sĩ, cũng đang trầm mặc say sưa ngẩng đầu ngóng nhìn đoàn người đối diện, hầu hết mọi người thực sự đã kìm không nổi cảm tình của bản thân. Bọn họ đều rưng rưng nước mắt, nhưng đây không phải giọt nước mắt tang thương sầu khổ, mà là giọt nước mắt của hạnh phúc ngọt ngào.
Trong trường hợp này, mọi người dường như đều không dám nói gì. Linh mục Lôi trong mắt chứa đầy những giọt lệ đang chờ trực rơi, đi trước dẫn đường, đám phạm nhân nối gót theo sau, chúng tu sĩ và những người giáo dân cũng theo đó hòa vào dòng người. thật là một cảnh tượng khiến người ta ngây ngất. Tiếng “Leng keng” cùng với sự thinh lặng, sự trầm mặc trộn lẫn với tiếng nước mắt ròng ròng, tất cả cùng nối đuối nhau tiến vào Thánh Đường.
“Puer. Natus est nobis” tiếng nhạc du dương phấn khởi đột nhiên vang lên, “Thánh lễ rạng đông” mừng Con Thiên Chúa Giáng Sinh bắt đầu rồi.
Nghi thức thánh lễ chẳng xa lạ với đám bạn tù, bọn họ ở trong ngục đã rất nhiều lần tham dự qua rồi. Nhưng, nghi thức long trọng, khung cảnh rộng rãi và không khí linh thiêng trong ngôi Thánh Đường, cộng thêm thánh lễ có hát thánh ca là lần đầu tiên bọn họ trải qua, khiến bọn họ trong sự hiếu kỳ, không ngừng cảm thấy may mắn vì bản thân đã trở nên bạn hữu của Giêsu.
Sau thánh lễ, linh mục Lôi dắt bọn họ tới Chân Phúc Viện mà bản thân thành lập, tham gia vào buổi mừng Lễ Giáng Sinh mà chúng tu sĩ đặc biệt tổ chức, để chào đón bọn họ, và tiếp đãi bọn họ một bữa trưa thịnh soạn.
Trong tiệc mừng lễ, linh mục Lôi nói lời chào đón trước, sau đó người đại diện đám bạn tù cũng có lời đáp lễ chúc mừng. Đại diện mà họ đề cử chính là hội trưởng Lưu, hội trưởng “Hội Công Giáo Tiến Hành” của bọn họ. Người này thông minh tháo vát, chữ nghĩa không tệ, tài ăn nói cực tốt.
“Tôi hôm nay đã tận mắt nhìn thấy, tận thân cảm nhận thứ tinh thần của Chúa Kitô” ông ấy lược đi “Kính ngữ”, mở đầu liền nói lên những lời từ đáy lòng. Ông ấy dừng một chút, dường như đang đè nén sự cảm động của tâm hồn, sau đó tiếp tục nói: “Chúng tôi là phạm nhân, là người bị xã hội loại bỏ…. Tiểu Đệ Đương Ích (tu sĩ phụ trách giảng đạo trong tù) nói với chúng tôi, Giêsu như thế nào yêu thương tội nhân, và dẫn lời Thánh Kinh làm chứng. Chúng tôi đã tin, nhưng chúng tôi vẫn chưa đích thân cảm nhận tình thương của Ngài…. hôm nay, chúng tôi cảm nhận được rồi. tình yêu của Chúa Kitô, điều biểu hiện ra trên người linh mục Lôi, chúng tu sĩ và các bạn hữu đồng đạo,…”. Nói đoạn, liền khóc huhu, ở dưới đài cũng là một khung cảnh đầy những tiếng khóc ran.
Ông ấy nói ngắt quãng hơn mươi phút, và đi xuống đài trong tiếng vỗ tay, cặp mắt vẫn dưng dưng đầy những giọt lệ.
Hầu hết tiết mục trong buổi chúc mừng là cây nhà lá vườn, là “Văn nghệ góp vui”: có ca vịnh, có hài kịch, có kể chuyện, có tấu hài,… mọi người có nói có cười và cũng có cả tiếng khóc nữa.
Sau bữa ăn, đám bạn tù “Leng keng” trở về trong lời tiễn biệt của chúng tôi.
Câu chuyện kết thúc rồi.
Độc giả có thể cảm thấy có một số sự đường đột phát sinh trong câu chuyện này, giờ đây tôi viết vài câu “Chú thích”, đem đầu đuôi câu chuyện làm một giải thích ngắn gọn cho mọi người.
Phía trước đoạn này, đã từng nói qua linh mục Lôi như thế nào đã phái các tu sĩ đi vào các nhà tù truyền giáo. Vì thế, việc vào tù bố đạo ở huyện An Quốc đã có lịch sử hơn ba năm rồi, hai phần ba bạn ngục, xấp xỉ khoảng trăm người đã rửa tội gia nhập Giáo Hội.
Mấy ngày trước Lễ Giáng Sinh năm thứ hai mươi lăm, Dân Quốc, linh mục Lôi tới huyện ủy, thỉnh cầu huyện trưởng Trương Ngưỡng Văn, một bạn hữu của ngài ấy, một việc kinh thiên động địa.
— “Linh mục Lôi, ngài định muốn đầu của tôi sao? Nếu chạy mất một tên, đừng nói cấp trên, tôi vô phương giải trình, ngay cả dân chúng nhất định cũng đập vỡ đầu tôi á!”
— “Sẽ không đâu, sẽ không chạy mất một ai đâu, tôi chắc chắn như thế”. Linh mục Lôi thành khẩn tiếp tục thỉnh cầu.
Hai người đã bàn luận rất lâu, kết quả linh mục Lôi lấy “Nhân cách của mình” bảo đảm, Trương huyện trưởng vẫn khăng khăng tù nhân phải đeo đầy đủ gông cùm xiềng xích, mới đáp ứng cho khoảng năm mươi phạm nhân xuất ngục tham dự thánh lễ.
Chập tối Lễ Giáng Sinh, Huyện trưởng Trương mặc thường phục một mình đến Chân Phúc Viện, vừa nhìn thấy Linh mục Lôi, liền nói: “Tảng đá lớn trong tim tôi cuối cùng cũng rơi xuống rồi. linh mục Lôi, ngài hại tôi không ít rồi! tôi cả ngày hôm nay đều ăn không ngon, trong tim luôn là thấp thỏm không yên”.
— “Tôi trưa này đồng bàn ăn chung với đám bạn tù, tôi ăn đặc biệt nhiều, tim tôi trước sau điều là ung dung thoải mái”. Linh mục Lôi cười nói.
— “Linh mục Lôi, ngài không cần nhiều lời với tôi, hiện tại tim tôi cũng đã ung dung thoải mái rồi” Huyện trưởng Trương nói đoạn liền phá lên cười haha.
Huyện trưởng Trương đứng dậy cáo từ, Linh mục Lôi tiễn ngài ấy tới cổng, hai người vừa đi vừa nói, chỉ nghe Huyện trưởng Trương sau cùng nói: “Linh mục Lôi, tôi mặc dù chưa có gia nhập tôn giáo của ngài, nhưng tôi không thể không bái phục tinh thần của Chúa Kitô”.
HỘI NHỮNG NGƯỜI KHÔNG CAM CHỊU
Ngày mười tám, tháng chín, năm thứ hai mươi Dân Quốc, sau khi Nhật chiếm Đông Bắc, với lòng tham không đáy, thế là năm sau (năm 21 Dân Quốc) lại tìm cớ kích động nội xâm, chiếm phạm Du Quan, Nhiệt Hà, Bức ép người trong nước, thực sự “Điều đó mà còn nhịn được, thì cái gì không thể nhịn được nữa đây!”.
Sự kiện ấy khiến toàn quốc náo loạn, dân chúng nổi dậy hô hào chính phủ đứng dậy mà phản kháng. Báo Ích Thế ở Thiên Tân dưới sự chỉ đạo của linh mục Lôi, là tiếng kêu vang vọng nhất, nhiều lúc khó tránh khỏi tiếng cực đoan và sặc mùi thuốc súng, khá có khả năng kéo dậy sự cộng hưởng của người Trung Quốc khi đó. Vì thế, doanh số nhanh chóng tăng vọt, đã đột phá cột mốc mười vạn bản.
Ngày 11 tháng 11 cùng năm, ông lão Mã Tương Bá khởi xướng lập “Hội những người không cam chịu” tại Thượng Hải, mục đích dùng tinh thần và vật chất chi viện cho tướng sỹ kháng chiến. Cao kiến hợp lòng dân này của ông ấy, thật sự là nhất hô vạn ứng, nhân sỹ ái quốc khắp nơi lần lượt hưởng ứng, người quyên tiền, kẻ tặng vật vô cùng hăng hái.
Linh mục Lôi nghe nói Lão Mã đã thành lập “Hội những người không cam chịu”, thì vui vẻ nhảy cẫng lên, lập tức đánh điện tín cho Lão Mã Tương, xin gia nhập hội. Đại ý thư của linh mục Lôi là: Tiền vàng vật chất tôi không có, nhưng tôi có một quả tim ấm nồng, và hơn trăm tu sĩ, cùng với hàng trăm giáo dân có thể huy động; chúng tôi đối với việc cứu quốc không thể góp tiền, nhưng lại nguyện ra sức, khi cần thiết có thể đổ máu, thậm chí hy sinh mạng sống, chúng tôi nguyện ý tới nơi nguy hiểm nhất, đi cứu hộ thương binh.
Lão Mã Tương rất nhanh thì đã hồi thư, không chỉ đáp ứng cho chúng tôi tham gia “Hội những người không cam chịu”, mà còn ủy nhiệm linh mục Lôi làm người phụ trách phân hội Hoa Bắc của “Hội những người không cam chịu”.
Linh mục Lôi làm việc trước sau thống khoái gọn gàng, tiếp nhận thư của Lão Mã Tương, và được Giám mục Tôn Đức Trinh cho phép, một mặt phái tu sĩ tới các nhà thờ trong giáo phận An Quốc chiêu mộ giáo hữu, sung làm nhân viên cứu thương, một mặt cả đêm chạy tới Bắc Bình, bàn bạc thủ tục thành lập đội cứu thương.
Một số nhân sĩ nổi tiếng trong xã hội Bắc Bình đương thời, như: Thái Hy Linh hay Chu Tử Kiều,… cũng đang ấp ủ tổ chức đội cứu thương. Bọn họ không màng kinh phí mà chỉ sợ không có người, trái lại, linh mục Lôi Minh Viễn mặc dù có nhân lực dồi dào, nhưng lại chẳng có kinh phí hoạt động. Vậy nên, đối phương một vỗ liền hợp, hai vị Thái, Chu vui mừng quá đỗi, đôn đốc linh mục Lôi nhanh chóng điều người lên phía bắc, tất cả kinh phí cần dùng, đều do hai vị này gánh vác.
Sau khi Linh mục Lôi từ Bắc Bình trở về An Quốc, các tu sĩ đi khắp nơi chiêu mộ nhân viên cứu thương cũng lần lần trở về, tất cả đều là thắng lợi vẻ vang, rất nhiều giáo dân hưởng ứng lời hiệu triệu, vượt xa con số dự tính. Sau khi sắp xếp lại, vẫn còn dư ra hơn hai trăm người. Linh mục Lôi kiêm luôn chức đội trưởng, phân chia hơn hai mươi tu sỹ dẫn dắt và tổ chức các nhóm nhỏ. Đến tháng ba, năm hai mươi Dân Quốc, mọi người rầm rộ đi lên phía bắc đầu quân cho các danh trại kháng chiến.
A, ĐẸP VÔ CÙNG!
Đương thời tôi vẫn là một thiếu niên mười chín tuổi, mặc dù nhiều lần nài xin linh mục Lôi mang tôi lên tiền tuyến, nhưng ngài ấy vẫn luôn cho rằng tôi nhãi ranh, vắt mũi chưa sạch, và cũng chưa từng được thấy pháo đạn, làm sao có thể chịu được gió sương và áp lực chiến trường. Vậy nên, bất luận thế nào cũng không đáp ứng sự nài nỉ của tôi. Vì thế, những câu chuyện dưới đây, phần lớn đều là chuyện sau này được nghe từ chính miệng của linh mục Lôi thuật lại.
Đầu tháng ba, năm hai mươi Dân Quốc, quân Nhật bắt đầu rục rịch tấn công Nhiệt Hà, Thang Ngọc Lân – chủ tịch tỉnh này mới nghe tin thì đã vội vàng bỏ chạy, khiến tướng lĩnh tiền tuyến cũng lần lượt nhắm mắt chạy theo. Thừa Đức khi ấy không một bóng quân, quân Nhật vì thế nghênh ngang tiến thẳng vào chiếm giữ.
Sau khi Nhiệt Hà thất thủ, quân Nhật thừa thắng tiến quân chiếm giữ các nơi hiểm yếu của Trường Thành. Trận chiến Trường Thành nổi tiếng trong lịch sử cận đại Trung Quốc dần mở ra chương khởi đầu. Chính là trong trận chiến nổi tiếng này, đội cứu thương Công Giáo do linh mục Lôi lãnh đạo, lần đầu tiên đã phát huy hơn cả mong đợi cái sức mạnh cực đại của mình, và cũng đã dành lấy cho Giáo hội không ít tiếng thơm mà trước giờ chưa từng có.
Lúc ấy, các danh tướng kháng Nhật như: Tống Triết Nguyên ở Hỉ Phong Khẩu, Quan Lân Chinh ở Cổ Bắc Khẩu, Thương Chấn ở Lãnh Khẩu, cũng đều phát huy tinh thần kháng Nhật cực kỳ anh dũng, và thu được những chiến quả huy hoàng. Đặc biệt lưỡi dao lớn của Tống Triết Nguyên, đã phát huy tác dụng cực đại trong lúc cận chiến với địch, đánh cho Nhật khấu thất bại thê thảm. Vì vậy, quân ta không chỉ giữ được các nơi hiểm yếu của Trường Thành, mà còn đẩy lui địch quân cách xa hơn 15km. Đương nhiên, quân ta cũng đã phải trả những cái giá tương xứng, thương vong không ít. Dưới con mắt của linh mục Lôi, điều này mặc dù đã gia tăng đáng kể công việc của đội cứu thương, nhưng cũng đã mang đến cho chúng tôi vinh quang và sự an ủi rất lớn.
Linh mục Lôi đem quân chủ lực và các thành viên đội cứu thương bố trí ở Hỉ Phong Khẩu, đồng thời cũng phân phái các tiểu đội khác đi đến các nơi khác trên chiến trường làm nhiệm vụ. Ngài ấy mặc dù là đội trưởng, nhưng không ở lại tổng bộ chỉ huy, ngài nhường cho phó đội trưởng ngồi canh tổng bộ và điều phái công việc, bản thân ngài ấy thì rong ruổi khắp các chiến địa, trong mưa bom bão đạn cổ vũ nhân viên cứu thương, an ủi thăm hỏi các tướng sĩ bị thương, hiệp trợ cứu hộ thương vong.
Ngày nọ, chiến sự tiền tuyến im ắng, linh mục Lôi nhân cơ hội này tới Bắc Bình một chuyến, vừa để chuyển thương binh tới bệnh viện hậu phương, và cũng để tới “Hội những người không cam chịu” thảo luận những việc quan trọng. Không biết trùng hợp thế nào, hay là do sự sắp xếp có chủ ý của người chủ trì, khi đội cáng thương đi tới Bắc Bình, tuyến đường vừa vặn đi qua “Nãi Tư Phủ”, văn phòng Đại diện Tòa Thánh tại Trung Quốc. Đương thời Đại diện Tòa Thành Cương Hằng Nghị đã trở về Giáo Triều báo cáo công tác, Đại Diện lâm thời Đức ông An Đồng Nghị (sau thăng lên làm Hồng y Bộ trưởng Bộ Tu Sỹ) và Đức ông Tham Tán Cao Di Túc nghe nói việc này, lập tức đi ra ngoài quan sát, Đức ông An nhìn thấy Linh mục Lôi và chúng tu sĩ thân mặc áo dòng, trộn lẫn trong đội cứu thương cùng đang mang vác trên vai những thương binh nặng nề, thì vừa vỗ tay vừa hét lớn: “A, đẹp vô cùng, việc truyền giảng Phúc Âm này còn đẹp hơn, có sức nặng hơn bất cứ bài diễn thuyết hay văn chương nào”.
Linh mục Lôi nghe thấy, liền quay mặt hướng về hai vị Công sứ An, Cao kính trọng gật đầu, đáp lại bằng những nụ cười lặng lẽ. Trong nụ cười lặng lẽ ấy không biết đang ẩn chứa bao nhiêu tình ý: là cảm kích? Là an ủi? là hưng phấn? Hay là thỏa mãn?…???
GIÁO DÂN VÀ ÁI QUỐC
Quỷ sứ Nhật Bản thật xảo quyệt! Chúng vì tấn công Trường Thành thất bại, liền thay đổi kế hoạch tác chiến: tập trung binh lực, từ Du Quan tiến chiếm Lạc Đông, lấy việc lay động hậu phương quân Trung Quốc để uy hiếp Bình Tân. Chính phủ ta tự biết thực lực kháng chiến vẫn chưa đầy đủ, vì kế hoạch lâu dài nên không thể không ép dạ cầu toàn, tạm thời nhân nhượng vì lợi ích của đại cục. Nhẫn nhục mật lệnh cho các bên liên quan nghị hòa với quân Nhật.
Đối với sự phát triển của cục diện chiến tranh, nước xa khó cứu lửa gần, tiền phương xa không giống hậu phương thông tin linh hoạt, huống hồ lại là bí mật quân sự. Linh mục Lôi đối với kế hoạch quân chính kể trên thì hoàn toàn không hay biết, ngài ấy vẫn vạch kế hoạch chiêu mộ thêm nhân viên cứu thương mới, để gia tăng sức mạnh cho công việc cứu thương.
Tuần đầu tháng năm, giám mục Tôn theo lệ hướng dẫn nhân viên thánh chức, linh mục, nam nữ tu sỹ, đại diện giáo dân,… của giáo phận An Quốc tới thôn Đông Lư Bảo Định, đất thánh nổi tiếng tại Hoa Bắc, hành hương triều bái Đức Mẹ. Linh mục Lôi do tiền phương gấp vội, muốn nhân cơ hội này chiêu mộ nhân viên cứu thương mới, trong thánh lễ mà giám mục Tôn chủ trì, linh mục Lôi giảng. Ngài ấy đã giảng một đạo lí có thể nói là trước giờ chưa từng thấy, chủ đề bài giảng của ngài ấy là: “Giáo dân và cứu quốc”. Đối với giáo dân, khi mà khí tức “Nhị Mao Tử[1]” đương thời vẫn chưa hoàn toàn quét sạch, đây thật là một tư tưởng nguy hiểm, đặc biệt là đạo lý này được giảng trong thánh lễ tại nhà thờ, đối với các Giáo sĩ Truyền giáo Ngoại quốc mà nói, đó đơn giản là “Dị đoan”.
Linh mục Lôi hiểu rõ hoàn cảnh của bản thân, cũng dự liệu trước những lời này của ngài sẽ đem đến nhiều “Đàm tiếu”. Ngài ấy rất thông minh, mở miệng liền lấy chiếc mũ “Thập giới” chụp xuống những hiểu lầm có thể ập đến. Ngài ấy nói: “Yêu nước là mệnh lệnh cao nhất của Thiên Chúa, là Điều răn thứ tư trong Thập Giới”. trong bài giảng ngày hôm ấy, khi giảng tới chỗ đặc sắc, hơn ngàn người nghe như quên đi bản thân đang ở trong nhà thờ, mà theo bản năng vỗ tay rần rần — Tôi bình sinh lần đầu tiên thấy người ta vỗ tay trong nhà thờ. Mặt khác, giảng tới chỗ cảm động, cả nhà thờ tứ phía đều vang lên tiếng khóc rân ran.
Bài giảng này, tôi đã ghi lại và đã tăng tải trên Nhật Báo Ích Thế ở Thiên Tân. Hai tháng sau, linh mục Vu Bân (sau thăng Hồng y) vừa học xong trở về nước, đảm nhận chức vụ tổng phụ trách Hội Công Giáo Tiến Hành toàn quốc, ngài ấy đọc được bài báo này, thì rất cảm động, nên đã xin ý kiến của tôi, cho phép đăng trên “Nguyệt San Công Giáo Tiến Hành”.
Sau thánh lễ, linh mục Lôi lệnh tôi đặt một chiếc bàn bên cạnh nhà thờ, để tiếp nhận báo danh tự nguyện tòng quân. Đáng tiếc, đã chậm một bước: “Hiệp định Đường Cô” đang trong thảo luận. Ngày ba mươi mốt tháng năm, hiệp định trên chính thức được công bố. Giáo hữu báo danh tòng quân mặc dù không tới tiền tuyến, nhưng nói chung cũng đã biểu hiện rõ ràng cái tinh thần yêu nước của họ.
MỘT LỄ GIÁNG SINH KHÓ QUÊN
Đúng tháng chín năm đó (1933), tôi và một số tu sĩ vâng lệnh tới Đại Chủng Viện Tuyên Hóa, ở phía bắc Trường Thành học triết học. Một tháng trước Lễ Giáng Sinh, chúng tôi đã họp bàn làm sao phái đại biểu trở về tổng viện An Quốc, tham gia đại lễ vĩnh khấn của linh mục Lôi. Mọi người đã đề cử hai người, tôi may mắn cũng có tên trong danh sách này. Tin tức hạnh phúc này khiến con tim hưng phấn của tôi như sắp nhảy ra khỏi lồng ngực!
Sau khi chọn ra đại biểu, Viện Trưởng Phân Viện của chúng tôi lập tức viết tin báo cáo linh mục Lôi, đồng thời cũng xin ngài ấy phát phí đi đường. Sau ba ngày, linh mục Lôi đã hồi đáp: “Vô cùng hoan nghênh anh em đến tham dự thánh lễ, nhưng Anh Khó Nghèo của Tổng Viện thực sự xoay không nổi phí đi đường…” . Gáo nước lạnh này khiến con tim sôi nổi của tôi dường như đã ngừng đập. Thực sự, tình trạng kinh tế của bổn hội từ khi thành lập, nhiều lần khiến chúng tu sĩ “Thu không đủ chi”, kinh phí tham dự thánh lễ, trong mắt của mọi người, thực sự quá lãng phí rồi. Tâm tình của tôi vì thế cũng rất nhanh đã trở lại trạng thái bình thường, và hy vọng đi tham dự thánh lễ của tôi cũng theo đó mà tiêu tan.
Danh tiếng của linh mục Lôi Minh Viễn tại Hoa Bắc, đặc biệt là trong đám quần chúng giáo dân Tuyên Hóa, không chỉ là nhà nhà đều biết, mà đơn giản là âm vang đến chói tai. Nhất cử nhất động của ngài ấy đều là chất liệu cho những cuộc nói chuyện thường ngày của giáo hữu. Tin tức ngài ấy sẽ phát nguyện vĩnh khấn vào Lễ Giáng Sinh sớm đã náo động khắp giáo hội Hoa Bắc rồi.
Một ngày Chúa Nhật nọ, sau thánh lễ, mấy vị giáo hữu vây quanh những tu sĩ chúng tôi hỏi đông hỏi tây, cũng hỏi tới việc toàn bộ tu sĩ sẽ trở lại Tổng Viện để tham dự thánh lễ phát nguyện của linh mục Lôi phải không. Một vị tu sĩ “Thành thật” đã nói toạc móng heo sự tình rằng chúng tôi không thể đi tham dự thánh lễ, mọi người nghe xong đều hít thở những hơi thật dài. Nhưng kỳ diệu thay! đêm hôm đó, có một bà cô đã ngoài bảy mươi đến gõ cửa phân viện, đưa cho chúng tôi 50 đồng bạc, nói là để làm lộ phí cho các tu sĩ trở lại Tổng Viện tham dự thánh lễ.
Nghe biết thế, con tim của tôi lại hào hứng trở lại, tôi đã được một “Kỳ nghỉ bất ngờ kéo dài cả tuần”.
Ba ngày trước Lễ Giáng Sinh, tôi và một tu sĩ khác đã về tới Chân Phúc Viện An Quốc.
Không biết có phải trùng hợp không, hay là giám mục Tôn đã có ý sắp xếp, Tòa Giám Mục khởi công xây dựng gần ba năm, cũng sẽ được thánh hiến và cử hành thánh lễ khai trương trước Lễ Giáng Sinh, và liền sau đó sẽ cử hành đại lễ tuyên khấn vĩnh viễn cho linh mục Lôi và một số anh em khác ở ngay chính ngôi thành đường mới thánh hiến này.
Ngôi đại thánh đường theo phong cách Trung Quốc này được xây dựng dưới sự thúc đẩy của Giám mục Cương Hằng Nghị, một người rất yêu nghệ thuật Trung Quốc và Linh mục Lôi, một người cũng rất tha thiết với văn hóa Trung Hoa. Toàn bộ công trình mặc dù chưa đến mức kỳ vĩ, nhưng nhìn từ phía chính diện của nhà thờ thực sự cũng có đủ cái khí chất sừng sững hoa lệ. Ngôi thánh đường ấy có sự hùng tráng của Chính Dương Môn ở Bắc Bình, cũng có sự huy hoàng của điêu khắc Di Hòa Viên. Tuy nhiên, trước khi khánh thành không lâu, giám mục Cương đã trở về Rôma báo cáo công vụ, và không thể tham dự đại lễ khánh thành, đây quả thực là một điều rất đáng tiếc. Sau này, Hồng y Cương, trên tạp trí xuất bản năm 1954, đã đăng tải hình ảnh của ngôi đại thánh đường này, và vinh danh như là tác phẩm tiêu biểu của nghệ thuật Trung Quốc.
Bởi vì chương trình ngày hôm đó rất nhiều và lại dài, nên bảy giờ ba mươi sáng đã bắt đầu nghi lễ thánh hiến thánh đường. Người đến tham dự ngoài nhân viên thánh chức của giáo phận, tu sĩ bổn hội, nữ tu dòng Têrêxa, các chủng sinh, khách mời đặc biệt, giáo dân Tây Xương,… khiến cho thánh đường có sức chứa hàng ngàn người này chợp mắt đã trở nên chật chội, nhiều người còn cảm thán: chật đến nỗi một con kiến cũng không thể chui lọt.
Nghi lễ thánh hiến thánh đường hoàn tất, tiếp theo chính là đại lễ tuyên khấn vĩnh viễn của Linh mục Lôi và bốn vị tu sĩ bổn hội. Đây là phần trung tâm của cả chương trình, và cũng là cao trào của những ngày lễ này.
Sự long trọng của lễ nghi, sự cảm động của kinh văn và xướng đáp, sự ấn tượng và đẹp đẽ trong động tác của chủ tế và phụ lễ, sự trang nghiêm trong biểu cảm của người tham dự, sự du dương của thánh nhạc, sự phóng khoáng và thanh nhã của không khí,… trăm công nghìn việc thật không biết phải bắt đầu từ đâu. Đây chỉ trần thuật một phân đoạn động lòng người, đại khái như là: Sau khi lễ tiết, ca vịnh, kinh văn và xướng đáp đã kinh qua không ít, bỗng nhiên vị tu sĩ dẫn lễ phát ra lời kêu gọi, linh mục Lôi và bốn vị tu sĩ cùng nhau phủ phục sát đất, hai vị giúp lễ cầm hai góc tấm vải đen đặc thù, phủ lên người cả năm vị, giống như đặt một trước quan tài lớn trước bàn thờ vậy.
Lúc này, chủ tế, phụ lễ và mọi người tham dự đều nín thở tập trung, nhìn chằm chằm cái vật đen khiến mọi người “Đứng hình” này, khiến cho không khí khi ấy tĩnh lặng thật sâu, nếu có cây kim rơi xuống đất, thì cũng có thể nghe thấy.
Sự tĩnh lặng kéo dài không lâu, thì từ nơi Giám mục Tôn truyền ra lời cầu nguyện chấn động: “Xin Chúa cho họ chết đi với thế gian…” tức khắc cả thánh đường xao động lên: tiếng khóc thút thít, tiếng phủi khăn, tiếng nấc nở, tiếng ho,… hợp với lời cầu nguyện đứt quãng không thành tiếng của giám mục Tôn, tất cả như quyện thành một dải âm thanh khiến người ta chìm vào trong linh thiêng hạnh phúc.
Cuối cùng, giám mục Tôn cũng lớn tiếng khóc, không thể tiếp tục đọc lời cầu nguyện. Người dẫn lễ chính là bản thân tôi đây, cũng đã mất đi năng lực khống chế hiện trường, dứt khoát dừng điều khiển, để mọi người thoải mái khóc. Tu sĩ Đại Bằng, một trong những người hôm nay cũng phát nguyện, ở dưới tấm màn đen lúc lắc cái đầu và nức nở khóc nghẹn.
Cứ như thế, sự hỗn loạn thánh thiêng ấy đã trôi qua hơn ba mươi phút, giám mục Tôn lúc này mới khống chế tình cảm, dùng âm thanh run bần bật, tiếp tục đọc: “Xin Chúa cho họ toàn hy sinh…… thật yêu người…… thường vui vẻ…..”
Chủ tế cầu nguyện xong, người dẫn lễ ra hiệu, đem tấm màn đen cất đi, năm người đẫm nước mắt từ từ đứng dậy, hai tay dơ lên trời, lấy âm điệu bi tráng khẩn thiết hát thật to: “Lạy Chúa con… cho con chết hoàn toàn, để được sống…”.
KẺ MẠNH BÀN CHUYỆN BỆNH TẬT
Sau khi Lễ Giáng Sinh đi qua, một dải Hoa Bắc đã chầm chầm đi vào mùa đông lạnh nhất.
Linh mục Lôi là “Cường nhân”, không chỉ ý chí kiên cường, mà sức mạnh thân thể cũng rất dẻo dai tuyệt vời. Ngài ấy cho rằng việc rèn luyện thân thể, khiến nó có thể chịu lạnh, cũng là một loại khổ tu tự nhiên, và cũng hợp với phép vệ sinh. Vì vậy, ngài ấy quy định phòng ngủ và phòng ăn các tu viện của bổn hội tại vùng ôn đới, vào mùa đông không lắp đặt lò sưởi. Thật ra mà nói, qui định này với người bình thường thì chẳng có gì để nói, nhưng với những tu sĩ thân thể gầy yếu ắt sẽ cảm khái: “Tâm có thừa mà lực chẳng đủ”. Trên thực tế, mỗi năm khi tới tháng giêng, phòng bệnh của Chân Phúc Viện liền có đầy bệnh nhân.
Nhưng, linh mục Lôi cũng chẳng vì thế mà thay đổi thói quen “Mùa đông không nổi lửa”, trái lại còn kêu gọi mọi người: Anh em hãy dùng sự khắc khổ của sinh hoạt, của cuộc sống hợp lý, của ý chí kiên cường, để duy trì sức khỏe thân thể. Từ quan điểm này mà nói, mạnh khỏe chính là “Nhân đức”. Vì thế, sinh bệnh nên được coi là một việc “Đáng tiếc”. Ngài ấy dẫn chứng lời của Khổng Tử: “Cha mẹ chỉ lo bệnh tật của con”, vậy nên, ngài thường nói với các tu sĩ anh em phải chú ý sức khỏe, đừng để bị ốm.
Sau này, linh mục Lôi không chỉ một lần nói: “Cha muốn chết trên đường làm việc, không muốn ốm liệt chết trên giường bệnh”.
Lúc ấy, tôi còn ít tuổi, vẫn là một tấm chiếu mới, chưa có nhiều kinh nghiệm cuộc đời, mà sức khỏe thân thể cũng không tệ. Nhưng những lời này của linh mục Lôi đã lập tức khắc vào trong tâm hồn bé nhỏ của tôi một ấn tượng cực sâu sắc. Từ đó trở đi, “Bệnh nhân” trong tâm trí của tôi luôn xứng đáng được đồng cảm, xứng đáng được cảm thông, xứng đáng được giúp đỡ, nhưng không xứng đáng được coi trọng, thậm chí còn cảm thấy tiếc nuối, chẳng hề cảm thấy có chỗ tích cực “Đáng học hỏi”.
Qua một đoạn thời gian, linh mục Lôi đã vạch ra một số “Quy tắc phòng bệnh”, ngài ấy nhờ tôi chép lại, đem dán ở phòng bệnh. Bên cạnh quy tắc chung còn có mấy lời như này, ví dụ: “Bệnh nhân là bảo bối của tu viện”, “Phòng bệnh là nhà thí luyện nhân đức thật”,… với tôi mà nói, Mấy lời này ra như hoàn toàn tương phản với cách nhìn đã tường thật ở trên của linh mục Lôi đối với bệnh nhân. Tôi sau khi xem qua, cũng che đậy không nổi sự sửng sốt của nội tâm, liền hỏi linh mục Lôi, điều này có phải là “Mẫu thuẫn tự thân” không?
Linh mục Lôi cười giải thích:
“Đây gọi là có vẻ mẫu thuẫn mà thôi! trong đời sống tu đức, con sẽ thấy có không ít tư tưởng và hành động, bề ngoài xem ra mâu thuẫn, nhưng kỳ thực bên trong là sự thống nhất, không thể không gia tăng chú ý. Lấy “Bệnh tình” mà nói, trước khi chưa sinh bệnh, dĩ nhiên phải lấy ý chí và sự khắc khổ để duy trì sức khỏe bản thân, đó là nhân đức. Nhưng, nếu không may sinh bệnh, thì không thể ta thán cách mù quáng, chúng ta kêu gào uổng công nhưng làm gì được nó. Vì thế, trăm vạn đừng nên oán trời giận đất, nhục mạ bệnh tình, mà tốt nhất phải đem bệnh khổ, biến thành tế phẩm tinh thần, dâng lên cho Chúa, đổi lại ân sủng cho giáo hội, cho thế giới, cho gia đình và cho bản thân. Theo cách nói này, bệnh nhân không phải đã thành bảo bối của tu viện sao?”
ONG VÀ RUỒI
Trên huy hiệu của Dòng Gioan Tẩy Giả, có vẽ hai con ong. Theo ý tứ của linh mục Lôi, đương nhiên là để ghi nhớ Thánh Gioan Tẩy Giả trong sa mạc đã lấy “Mật ong” chống đói (Mt 3,4). Nhưng ngài ấy còn nói, con ong vẫn có ý nghĩa tượng trưng cao quý hơn, đó là: cần cù và phục vụ.
Linh mục Lôi nói, con ong thật sự là loài côn trùng có những đức tính mà người người đều yêu thích, nó cả ngày cần lao phấn đấu, bay tới bay lui, không phải là tiêu khiển, mà là để làm việc, để tạo ra những giọt mật thơm ngon và đầy dinh dưỡng. Nó quả thực là mô phạm làm người của chúng ta. Tu sỹ Hội Dòng bất luận phục vụ ở tu viện hay ngoài xã hội, luôn luôn phải đem con ong đặt ở trước mặt, để luôn luôn ghi nhớ phải bồi dưỡng tinh thần “Cần lao, Chăm chỉ, Cố gắng” ở bên trong; còn bên ngoài thì nhiệt thành phục vụ, khiến người chung quanh cảm thấy vui vẻ.
Linh mục Lôi cho rằng, bản chất cuộc sống là làm việc, mà tinh thần của công việc chính là “Cố gắng phấn đấu”. (Linh mục Lôi thích dùng những danh từ có âm hưởng giàu “Tính thúc đẩy tích cực”, ngài ấy dùng chữ “Khẩn trương” để thay cho từ “Cố gắng phấn đấu”. Ngài ấy nói: “Hãy khẩn trương hóa công việc của anh em”, đương nhiên đây không chỉ sự hồi hộp của thần kinh, mà là chỉ sự phấn chấn của tinh thần). Ngài ấy nói: “Khác biệt giữa thánh hiền và hạng xoàng xĩnh, có thể đo lường qua thái độ của họ với công việc”. Nếu một người lười biếng hời hợt, không biểu hiện tinh thần “Cố gắng phấn đấu”, thì không thể gọi là một “Người hoàn hảo”.
Con người là động vật có tính linh, cần cù cũng phải phát huy cả hai mặt: cần cù trên phương diện tinh thần chính là luôn luôn biểu hiện sự nhiệt thành với Thiên Chúa, giống như Giêsu — Con Người hoàn hảo, cứu Chúa của chúng ta vậy, Ngài ấy luôn làm việc vui lòng Thiên Chúa. Về phương diện thân xác, đầu tiên phải làm là đừng ăn không ngồi rồi, linh mục Lôi nói với chúng tôi “Thay đổi công việc là nghỉ ngơi”. Ngài ấy cấm chúng tôi chơi bài hoặc cờ tướng, những trò chơi mất thời gian và hao phí tinh lực. Ngài ấy rất đề cao những trò chơi vận động và các loại võ thuật.
Người thiếu tính cần cù mà lại ưa bắt bẻ, hay bất bình, oán trời giận người,… Linh mục Lôi gọi những người này là những con người mang hình ruồi nhặng. Ngài ấy nói, nhà thơ Hi Lạp Homer sớm đã nói qua: “Người ít làm việc thường là người hay oán giận nhất”. Thực sự, ruồi nhặng chẳng có công việc gì, lại thường hay vo ve, truyền lan khuẩn bệnh, làm hại loài khác. Người mang hình ruồi nhặng cũng vậy, ở trong cộng đoàn, thường gây phiền nhiễu, giết chết niềm vui, làm giảm nhiệt thành, tước đoạt bình an của mọi người.
NGHỆ THUẬT CƯỜI
Linh mục Lôi cả đời “Thường vui vẻ”, không chỉ nội tâm ôm ấp một cái nhìn lạc quan đối với cuộc sống, mà bên ngoài cũng thường duy trì dáng vẻ vui tươi hoạt bát. Người thấy qua ngài ấy đều có thể chứng minh, ngài ấy dường như chẳng có nỗi buồn. Nhiều lần còn nghe người khác nói, một lần nói chuyện với linh mục Lôi, khốn cảnh của họ dường như đã được giải quyết hơn nửa. Kỳ thực, bình tĩnh nghĩ suy, vẫn là chưa có biện pháp giải quyết cụ thể, nhưng cảm thấy tinh thần lạc quan của linh mục Lôi, khiến tâm tình của bản thân họ có những biến hóa rất lớn. Châm ngôn “Lấy tinh thần vui vẻ đón tiếp khó khăn, khó khăn đã được khắc phục một nửa rồi” của ngài ấy đã được chứng thực trên chính bản thân tôi.
Linh mục Lôi thường nói: “Người không biết cười là người ngu ngốc”. Thực sự, người không biết cười, thì buồn càng thêm buồn, là ngược đãi bản thân, đồng thời lại gây nên không khí u ám, giảm bớt hào cảm của những người xung quanh, thực sự ngu ngốc đến cùng mà; trái lại, người thường mỉm cười sẽ khiến cho cuộc sống của bản thân tỏ ra dễ chịu, duy trì vẻ vui tươi càng có thể khiến người khác sống thoải mái hơn; tâm tình vui vẻ hơn, đặc biệt có thể thu được niềm vui của Thiên Chúa.
Tôi bám gót linh mục Lôi mười năm, không phủ nhận ngài ấy vẫn thường gặp nhiều khó khăn, nội tâm cũng thường tràn đầy thống khổ. Theo sự hiểu biết của tôi đối với ngài ấy, thì ngài ấy cũng rất mẫn cảm, gặp phải việc thương tâm, thì phản ứng rất nhanh, có khi biểu hiện ra bằng những tiếng khóc thất thanh, nhưng rồi cũng rất nhanh đã hồi phục bình tĩnh cũng như vẻ vui tươi tràn đầy khuôn mặt. Có một lần tôi “Đồng ngôn vô kỵ”, tức trẻ con luôn nói thật mà không hề suy tính, hỏi ngài ấy: chúng ta luôn biểu hiện vẻ vui tươi trên khuôn mặt liệu có phải là đang làm bộ làm tịch không? Ngài ấy trả lời rất thẳng thắn: “Không phải! đây là lấy ý chí khống chế cảm tình, đó chính là công phu vốn có trong tu dưỡng, là nghệ thuật cười”.
“Nhớ nhé, con trai!” sau cùng linh mục Lôi nói, “Nụ cười trên khuôn mặt, cho dù là miễn cưỡng, cũng có thể giảm bớt khổ sầu của nội tâm, gia tăng không khí vui vẻ của đoàn thể”.
BA ĐẠI BÁU VẬT CỦA CUỘC ĐỜI
Trong một cuộc sống mà “Công thương nghiệp được đề cao, khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, cuộc sống về đêm đầy nhộn nhịp”, thì cũng có không ít người vì hạnh phúc của con người đã kêu gọi mọi người trở lại với một cuộc sống gần gũi “Thiên nhiên”. Nghe nói, công trình kiến trúc do kiến trúc sư nổi tiếng người Mỹ, Richard Neutra thiết kế đã vô cùng được hoan nghênh, và đã phổ biến trong rất nhiều thành phố trên thế giới. Những căn phòng mà Richard thiết kế, đều có một đặc điểm điển hình mà ai cũng có thể nhận ra, chính là anh ta thích dùng một tấm kính lớn, khiến cho người ở trong nhà luôn cảm thấy bản thân dường như là đang ở trong sự ôm ấp của “Thiên nhiên” vậy.
Linh mục Lôi Minh Viễn đầu những năm 30 của thế kỷ trước cũng đã sớm đề xuất cao kiến này. Thời kì ngài ấy ở Hoa Bắc truyền giáo, mặc dù rất ngưỡng mộ văn vật Trung Quốc, nhưng lại không tán thưởng những ngôi nhà “Thấp bé, chật chội, âm u, bế khí” mà dân xứ ta thường ở. Khi ngài ấy thành lập bổn hội, vì kinh tế eo hẹp, tu viện xây dựng ban đầu đều là những phòng trệt rất thô sơ, nhưng có điểm khác biệt với dân xứ ta chính là, dưới sự góp ý của linh mục Lôi, tất cả nhà ở trước sau đều trổ cửa sổ lớn, để bên trong có đầy đủ ánh sáng và không khí.
Ở Hoa Bắc có một nếp sống mà linh mục Lôi không dám hội nhập là rất ít tắm rửa. Ngài ấy để cải thiện phong tục không hay này, không chỉ bản thân mỗi ngày đều tắm rửa, mà sau khi thành lập bổn hội, cũng quy định chúng tôi: “Mỗi ngày cần phải tắm rửa, chí ít mỗi tuần một lần” ( Luật Dòng điều 113).
Mặt trời, không khí, nước được linh mục Lôi gọi là “Ba đại báu vật thiên nhiên”, không phí một đồng cắc nhưng đều có thể tự do hưởng dùng hết mức.
Linh mục Lôi vẫn còn một chiêu “Kiệt xuất” là đem các mặt của cuộc sống nối kết với “Đời sống vĩnh cửu”. Ba đại báu vật kể trên cũng không ngoại lệ, ngài ấy hướng dẫn chúng tôi, phải mở rộng hết cỡ cửa sổ tâm hồn, để ánh sáng của Chúa Kitô, gió của Thánh Thần, giọt nước mắt của sám hối, được lưu thông thuận lợi nhất.
Ánh sáng và nhiệt lượng của mặt trời thật sự là báu vật của nhân sinh. Khoa học gia gọi mặt trời là “Dây sự sống” của tất cả sinh vật trên địa cầu. Tất cả thực vật đều là năng lượng của mặt trời được tích trữ, giá trị dinh dưỡng của thực vật mà chúng ta đo lường cũng lấy Calo (hay calories – Đơn vị để tính hàm lượng năng lượng trong thức ăn) để tính toán. Bác sỹ cũng luôn luôn khuyên bệnh nhân của anh ta đi “Tắm nắng”. Kỳ thực, không cần chờ khoa học gia chứng minh, kiến thức cơ bản của chúng ta không phải luôn luôn đang chứng minh chân lý này sao: Ở trên núi, nơi cây cối có ánh sáng thì xanh tốt, trong bóng râm thì cây cỏ thưa thớt lèo tèo.
Linh mục Lôi vì hết sức có thể hấp thụ ánh mặt trời, ra ngoài luôn không đội mũ. Ngay cả đi dưới cái nắng gay gắt của mùa hè, cũng thường “Đầu trần đội trời”. Nhớ trong thời kháng chiến, trong một ngày nắng dữ dội, chúng tôi vẫn đi vận chuyển thương binh. Có một vị sĩ quan nhìn thấy linh mục Lôi mồ hôi nhễ nhại đầy đầu, đang phản chiếu ánh mặt trời, đặc biệt chói mắt. Viên sĩ quan liền hỏi ngài ấy: “Đội trưởng Lôi, ngài không đội mũ, ngài không cảm thấy nắng nóng sao? Linh mục Lôi chơi chữ đáp: “Không sợ, não của tôi là đầu kháng Nhật!” (trong tiếng Trung chữ “Nhật” và chữ “Mặt trời” là cùng một từ). Sau đó ngài ấy thấp giọng nói với tôi: “Cha là đang hết sức có thể hấp thụ Năng lượng mặt trời đấy!”
Sinh mệnh vật chất không thể thiếu ánh sáng, sự sống tinh thần càng rời không nổi “Ánh sáng của Chúa Kitô”. Linh mục Lôi khuyên chúng tôi phải tận lực khai mở cánh cửa tâm linh và tâm hồn chúng tôi – tai mắt chính là muốn chúng ta chăm đọc sách, lắng nghe, suy nghĩ và hiểu tận tường lời Chúa.
Linh mục Lôi mặc dù không phải giáo sư Kinh Thánh, nhưng đối với Kinh Thánh lại vô cùng thành thục, đặc biệt là đối với những chương đoạn liên quan đến Phúc Âm, như: Giáo huấn trên núi, các dụ ngôn, bữa ăn cuối cùng, các thư của thánh Phaolo,… ngay cả Kinh Thánh bản tiếng Trung, ngài cũng có thể đọc thuộc lòng nguyên văn – ngài ấy khi giảng hay diễn thuyết, trước nay đều không đọc bản thảo.
Ngày đầu tiên chúng tôi gia nhập hội dòng, thì mỗi người được phát một bộ tuyển tập Tân Ước, trong nghi thức tuyên khấn, thì có lễ nghi “Tiếp nhận Thánh Kinh” long trọng hơn. Ngài ấy cũng quy định cho tu sĩ bổn hội thời gian đọc Thánh Kinh công khai và riêng tư mỗi ngày. Chúng tôi ở trong tu viện, tuân theo lời dạy của Khổng Tử: “Ăn không nói, ngủ không lời”, khi ăn cơm luôn không được phép nói chuyện. Linh mục Lôi muốn chúng tôi lợi dụng cơ hội này hấp thụ hơn nữa ánh sáng của Chúa Kitô: mọi người khi ăn cơm, thì có một người đọc sách thiêng liêng, trước khi đọc sách thiêng liêng, thì luôn luôn mở đầu bằng việc đọc mấy đoạn Thánh Kinh.
Tóm lại, để nâng cao đời sống tu đức, ngài ấy muốn chúng tôi phải hết sức tận dụng, tiếp cận và hấp thụ với “Nguồn của sự sống”.
Một con đường bồi dưỡng thân thể khác của linh mục Lôi là “Dậy sớm”, ngài ấy cả đời, trừ những lúc trọng bệnh, không một ngày nào là không dậy “Trước bình minh”. Sau khi thành lập hai Hội Dòng Gioan Tẩy Giả và Dòng Têrêsa, ngài ấy đem “Dậy sớm” định thành thói quen quy củ của hai hội dòng này. Ngài ấy chủ trương và cũng hy vọng chúng đệ tử của ngài ấy, việc đầu tiên sau khi thức dậy, không phải là đánh răng súc miệng, mà là đến bên cửa sổ tập thể dục buổi sáng, hít thở không khí trong lành.
Sự liên hệ của không khí đối với sinh mệnh còn cấp bách và quan trọng hơn cả mặt trời. Con người có thể không thấy mặt trời một thời gian ngắn, nhưng nhất định khó có thể ngừng hô hấp không khí trong vài sát na.
Hít thở không khí trong lành, đặc biệt là thường hít thở sâu, sẽ có rất nhiều lợi ích đối với thân thể. Lợi ích này đôi ba lời thật không thể nói hết được: không khí đi vào máu, sau khi đi vào tất cả những mao mạch và mọi tế bào của thân thể, trao đổi, tổ hợp dinh dưỡng, sản sinh năng lượng, sức lực, thúc đẩy tuần hoàn, bài trừ độc tố cặn bã, khiến cho tế bào hoạt động, thần kinh thoải mái, não lực tươi mới.
Để thúc đẩy sức khỏe của chúng tôi, linh mục Lôi không chỉ trình bày lý luận “Sự quan trọng của không khí” mà còn san định những phương pháp “Hết sức tận dụng không khí”: ngài ấy cấm tu sĩ của bổn hội “Đóng cửa ngủ”, cho dù trong mùa đông lạnh cũng không ngoại lệ; lại càng không cho phép ngủ trùm đầu; ngài ấy nhiều khi cho phép những tu sĩ ngủ không đủ đi ngủ sớm, nhưng không bao giờ cho phép dậy muộn. Để bảo vệ chủ trương “Mở cửa khi ngủ” của mình, Linh mục Lôi ý chí kiên cường đã lao vào những “Cuộc chiến sinh tử” với những người phản đối. Cho đến khi thở hơi thở cuối cùng, ngài ấy vẫn không khuất phục đối phương. Sau khi ngài ấy qua đời, thì giám mục An Quốc Vương Lự Viễn mới chấp thuận bỏ đi lệnh cấm này.
Không khí vật chất mặc dù cần thiết, nhưng linh mục Lôi càng chú ý hơn tới không khí của đời sống tinh thần. Thánh Thần chính là “Gió” và “Khí” của đời sống tu đức. Các tông đồ trước khi lãnh nhận Thần Khí, mặc dù sớm chiều ở cùng Đức Kitô, mặt trời công chính, nhưng đối với những việc siêu nhiên, các ngài vẫn là lò mò không hiểu, đức tin của các ngài cũng trồi sụt bất định, tinh thần phấn đấu lại càng không có. Vậy mà trong ngày thứ nhất của Lễ Ngũ Tuần, một trận gió mát mà Thánh Thần thổi đến, đã khiến cho bọn họ trở nên khác lạ, trước sau như là hai con người hoàn toàn khác nhau. Linh mục Lôi nói, đấy là tầm quan trọng của Thánh Thần trong đời sống tu đức. Vì thế, ngài ấy vô cùng chú trọng tới việc suy niệm buổi sáng sớm. Ngài ấy nói, việc suy niệm buổi sáng giống như việc tập thể dục buổi sáng vậy, chính là thời khắc “Hô hấp sâu” trong đời sống tu đức của chúng ta, để cho tinh thần của Chúa Thánh Thần hết sức có thể tham gia vào mọi mặt trong đời sống tinh thần của chúng ta, để Ngài ấy tẩy trừ những thói quen xấu của chúng ta, để chúng ta không ngừng đổi mới, và để đời sống tu đức của chúng ta luôn luôn duy trì sự cân bằng, luôn luôn tràn đầy sức sống cũng như tình yêu Thiên Chúa.
Công dụng của nước trên thân thể chủ yếu là “Tẩy rửa” và “Lưu thông”. Linh mục Lôi nói, đây mặc dù là tác dụng tiêu cực, nhưng tính quan trọng của nó cũng chưa bao giờ kém hơn hai báu vật trước đó. Vì thế, nước cũng là một báu vật rất nên trọng dụng.
Tắm rửa mỗi ngày là thói quen tốt mà linh mục Lôi cả đời không bao giờ lơ là. Ngài ấy vì để thực hiện tới cùng thói quen tốt này, nên chẳng bao giờ tính toán đau khổ hay phiền toái. Khi ở tiền tuyến cứu trợ thương binh, mặc dù chẳng có đồ dùng tắm rửa, ngài ấy cũng có biện pháp để giải quyết những khó khăn ấy. Ngài ấy cũng nhiều lần đập vỡ băng, xuống nước tắm rửa. Có lần có người nhìn thấy ngài tắm, ngài ấy còn nói cách hài hước: “Anh em không hiểu đâu, ở dưới băng ấm lắm!”. Ngài ấy đối với nước, giống như sâu rượu đối với rượu vậy, dường như đã dưỡng thành một thói quen khó bỏ. Thói quen này như là nghiện ngập vậy, nhìn thấy rồi thì không buông tay. Khi hành quân ở tiền tuyến, chỉ cần gặp thấy nước chảy, ngài ấy nhất định nói đồng đội đi trước một đoạn, bản thân thì tìm nơi yên tĩnh, tắm rửa một mình.
Nước trong đời sống tinh thần chính là sám hối, ngài ấy yêu thích và xem nó như chí bảo. Ngài ấy không chỉ tiến hành xưng tội với Thiên Chúa, mà còn không ngừng khiêm nhường hối lỗi với người khác, ngay cả trong những việc xem ra không ảnh hưởng gì. Nói cách khác, ngài ấy không cho rằng sai lầm là thứ đáng xấu hổ. Động tác “Quỳ xuống xin tha thứ” của ngài ấy ở giáo hội Hoa Bắc thật là nhà nhà đều biết. Ngài ấy không chỉ đối với thượng cấp hay những người đồng vai phải vế, mà ngay cả đối với thuộc hạ cũng sẽ quỳ xuống xin lỗi.
Linh mục Lôi trong đời sống tu đức, cũng giống như trong đời sống vật chất vậy, không bao giờ cho phép vũng lầy của tội lỗi ngăn cản con đường của ân sủng.
Trên bức tường trong phòng tự học của Chân Phúc Viện có treo một biểu ngữ chữ ngang rất lớn: “Đánh ngã tôi”. Ở hai đầu lót thêm cặp câu đối 4 chữ nằm dọc, cặp câu đối này chính là câu danh ngôn của Gia Cát Vũ: “Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi”. Những người đến Chân Phúc Viện tham quan, đặc biệt là những người ngưỡng mộ linh mục Lôi, khi nhìn thấy biểu ngữ này thì không thể không khỏi giật mình kinh ngạc.
“Hàng ngàn hàng vạn lời nói về cuộc đời của linh mục Lôi, chỉ tóm gọn trong một chữ “Công”. Bởi ngài ấy “Vì công quên tư”, nên có thể “Toàn hy sinh”; bởi ngài ấy “Vì công không tư”, nên có thể “Thật yêu người”; bởi ngài ấy “Chí công vô tư”, nên có thể “Thường vui vẻ”. Ba chữ “Đánh ngã tôi” của ngài ấy, cũng tức là triệt để “Quên mình, bỏ mình, vô mình”. Không có “Quên mình”, cho dù có hy sinh thì cũng không thể “Hoàn toàn”; không có “Bỏ mình”, mặc dù có yêu người thì cũng không thể “Thật”; không có “Vô mình”, mặc cho có vui vẻ thì cũng không thể “Thường”.
“Đánh ngã tôi” là công phu căn bản trong việc kỷ luật bản thân của linh mục Lôi, và cũng là bí quyết thành công mà ngài ấy huấn luyện môn sinh. Người quen biết ngài ấy đều có thể minh chứng, sự nghiệp cả đời cũng như tinh thần động lòng người của ngài ấy đều bắt nguồn từ sự tu dưỡng “Quên mình, bỏ mình, vô mình”. “Đánh ngã tôi”, ba chữ ngắn gọn tưởng chừng như rất đơn giản, nhưng nội dung của nó lại bao quát tất cả. Muốn thực hành nó thì cũng giống như leo lên núi cao vậy, không phải là một bước liền có thể thành toàn.
Theo như tôi nhiều năm nghe ngài ấy giải thích ba chữ này, đồng thời quan sát những nỗ lực mà ngài ấy thực hành ba chữ trên, việc kỷ luật bản thân của ngài ấy có thể phân thành ba bước: đánh tôi, đánh ngã tôi, đánh chết tôi.
“Từ bỏ chính mình” (Mc 8,34) mà Chúa Giêsu giảng, “Bỏ đi con người cũ” (Pl 4,22) mà thánh Phaolo nói, thuật ngữ “Khắc chế bản thân” trong tu đức học, “Bỏ mình” mà người ta thường nói trong tu dưỡng bản thân, cũng chính là bước đầu tiên “Đánh tôi” trong việc kỷ luật bản thân của linh mục Lôi.
Trong nửa năm đầu khi tôi gia nhập hội dòng, khi linh mục Lôi giảng Thánh Kinh, Tu Đức học, Luật Dòng và những bài giảng thiêng liêng khác cho chúng tôi, ngài ấy quen dùng chữ “Ra khỏi bản thân”, “Khắc chế con người cũ”, “Không quan tâm bản thân”,… để hình dung cảnh giới “Đánh ngã tôi”. Về sau, ngài ấy dần dần gia tăng ngữ khí, ngài ấy đổi qua dùng: “Từ bỏ tất cả”, “Trút bỏ tất cả”, “Vất đi tất cả”… Sau nữa, lại nghe ngài dùng hai chữ “Hy sinh” thay thế cho từ bỏ. Cuối cùng mới chính thức hình thành chữ “Toàn hy sinh”, là phần đầu tiên trong Cương Lĩnh Tu Đức của ngài ấy. Ngài ấy nói: “Toàn hy sinh” mới là sự giải thích tốt nhất cho chữ “Đánh ngã tôi”.
Ngày nọ, một vị tu sĩ trẻ hỏi linh mục Lôi: “Cha kêu chúng con “Đánh ngã mình”, hy sinh tất cả. Nhưng trên thực tế, chúng con không thể không ăn, không uống, không… càng không thể tự sát á!” – “Con nói đúng” linh mục Lôi mỉm cười: “Nhưng chỉ đúng một nửa mà thôi. Thứ mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đánh là “Bản thân biến chất”, thứ đáng phải hy sinh là tham dục hướng ác. Hy sinh tất cả chính là bồi dưỡng “Một bản thân có nhân cách cao thượng”, “Một bản thân được thánh sủng nâng đỡ”, “Một bản thân xứng hợp với giáo huấn Phúc Âm”,… Đó chính là đời sống tu đức vậy”.
Linh mục Lôi tiếp tục nói: “Cái tôi”, “Con người cũ” là kẻ tử thù của đời sống tu đức, là nội thù giảo hoạt và khó khắc phục nhất, nó thường chờ chực cơ hội mà hành động, gọi nó là “Con lật đật hay kẻ cơ hội” thì cũng chẳng có gì sai. Tôi mặc dù rất chú ý lắng nghe và đón nhận, nhưng vẫn cảm thấy “Con người cũ” này thường xuyên phá hoại đời sống tu đức và công việc truyền giáo của tôi. Tôi phải không ngừng “Đánh tôi”.
Mỗi lần có tu sĩ mới phát nguyện, khi cử hành “Nghi lễ tiếp đón”, linh mục Lôi luôn nhắc nhở người mới phát nguyện, sau này, đừng để “Con người cũ” sống lại, một khi nó sống lại, nó sẽ khiến thành quả tập luyện hy sinh bao năm của anh đổ sông đổ bể. Thời kỳ nhà tập, chỉ cần xây dựng nền tảng “Đánh ngã tôi”, luyện tập kỹ thuật “Toàn hy sinh”, sau khi phát nguyện “Giữ ba lời khấn” mới là mảnh đất để bồi dưỡng và thực hành “Đánh tôi”.
Linh mục Lôi thường gọi “Con người cũ” là kẻ cơ hội hay con lật đật, bạn có đánh thế nào thì nó vẫn chực chờ trở về vị trí ban đầu, vậy sao phải hà tất mưu tính “Đánh ngã tôi”
Linh mục Lôi có lý do của ngài ấy. Ngài ấy nói, nếu muốn đem khuynh hướng ham muốn tội lỗi nhổ tận gốc, e rằng cả cuộc đời này đều làm không nổi. Vậy nên, ý nghĩa đích thực của “Đánh ngã tôi” hệ tại sự kiên quyết của ý chí và sự phấn đấu của hành vi.
Đời sống tu đức cũng giống mảnh vườn vậy, “Cái tôi” thì giống như “Cỏ dại”, nếu để yên, nó sẽ mặc sức phát triển và lan tràn mạnh mẽ và sẽ dần lấn át con người thiêng liêng của chúng ta; nhưng nếu ý chí kiên quyết không hùa theo, mà tích cực khống chế, khiến cho cỏ dại mất hết đi sức lực và tinh thần phản kháng mà không thể phát triển hoặc lịu tàn đi, đó chính là chúng ta đang ngày càng làm sáng rõ con người đích thực của mình vậy. Tuy nhiên, giống như cỏ dại, sức sống của “Cái tôi” cũng rất đang gờm, nếu chúng ta mất cảnh giác, trong một sát na bé nhỏ thôi, nó cũng sẽ trở lại và lợi hại hơn biết chừng nào. Vì thế, trên con đường thiêng liêng, chúng ta cần phải kiên quyết, tích cực khống chế, tấn công, và bào mòn mọi phản kháng của cái tôi, đó chính là chúng ta đang “Đánh ngã cái tôi” vậy.
Ai gặp qua linh lục Lôi đều biết bản tính của ngài ấy rất mãnh liệt, một cá tính đặc biệt mạnh mẽ. Đối với chúng tôi mà nói, đây chính là cái vốn trời phú cho sự nghiệp thành công của ngài ấy, nhưng ngài ấy lại cho rằng đó là kiệt tác của “Con người cũ”, là khuyết điểm lớn nhất trong đời sống tu đức của ngài ấy. Ngài ấy để khống chế tính cách này, cả đời không biết đã dùng biết bao “Công phu khắc khổ”.
Thời gian mười năm tôi ở cùng với ngài ấy, dường như mỗi ngày đều nhìn thấy ngài ấy chiến đấu với “Con người cũ” này. Ví dụ, khi ngài ấy đang bận bịu chăm chú viết bức thư quan trọng, nếu có người làm phiền ngài, ngài ấy theo bản năng liền cau mày khó chịu, nhưng lập tức nở nụ cười vui vẻ đón tiếp, nhẹ nhàng hỏi: Việc gì vậy?
Tôi đã ba lần nhìn thấy ngài ấy sau khi nổi giận với cấp dưới, liền lập tức quỳ xuống xin lỗi người ấy. Quyết tâm và nỗ lực tấn công “Con người cũ” của ngài ấy, thật sự khiến người ta cảm thán và khâm phục không thôi.
Vào đúng năm bổn hội lần đầu tiên cử hành thánh lễ vĩnh khấn (năm hai mươi hai Dân Quốc), cuộc tĩnh tâm thường niên kéo dài từ tám đến mười ngày của hội dòng chúng tôi cũng có nhiều thay đổi mới lạ hơn hẳn. Đề mục mới lạ nhất trong chủ đề suy niệm khiến mọi người chú ý là “Chết hoàn toàn”. Vế sau của câu đối hai bên chữ “Đánh ngã tôi” được đổi thành “Chết cũng không thôi”. Trên một bức tường khác lại xuất hiện một tấm biểu ngữ mới: “Đánh chết tôi”. Trong nghi thức vĩnh khấn bản mới của bổn hội có một bài hát, cũng ghi “Cho con chết hoàn toàn”; trong nghi thức vĩnh khấn của Dòng Têrêsa, câu này viết là: “Chị em đã chết rồi!”.
Sau khi linh mục Lôi đã trải qua thời gian dài suy nghĩ, cũng như thể nghiệm trong nhiều năm khổ hạnh, ngài ấy cảm thấy “Đánh ngã tôi” vẫn chưa đủ triệt để, cần phải tiến thêm một bước nữa, tiến tới cảnh giới “Đánh chết tôi”, mới có thể khiến cho thánh sủng của Thiên Chúa phát huy sức mạnh lớn nhất. Ngài ấy kỳ vọng rất cao đối với đời sống tu đức của anh em bổn hội, ngài ấy vốn muốn phỏng theo một số dòng tu lâu lời, ngoài ba lời khấn, còn tăng thêm lời hứa thứ tư: “Chết hoàn toàn”. Nhưng vì không phù hợp với pháp lệnh của Giáo Hội hiện hành, nên không được phê duyệt. Nhưng ngài ấy vẫn như trước đem ý nghĩa và tinh thần của “Chết hoàn toàn” ném vào trong nguyên lý “Vâng phục”.
Ý nghĩa pháp lý của từ “Chết hoàn toàn” (vâng phục triệt để) mà linh mục Lôi đưa ra cho bổn hội, là “Anh em làm gì? Đi đâu? Học hành, tiến chức hay không? Đều do bề trên định đoạt”. Thậm chí, ngài ấy lý giải tinh thần “Chết hoàn toàn” chính là mở rộng ra tới không giới hạn. Ví dụ ngài ấy nói: “Anh em tu sĩ mặc dù có quyền lợi thủ đắc nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống, nhưng tinh thần “Chết hoàn toàn” mời gọi tu sĩ bổn hội khi đang dùng quyền lợi này, nội tâm phải luôn khát vọng“Không dùng tới quyền lợi này” để tự thủ đắc bất cứ thứ gì.
Theo như tôi biết, linh mục Lôi trước khi chính thức phát biểu tinh thần “Chết hoàn toàn”, khi giảng “Hạt lúa cần phải chết đi” (Ga 12,24), “Chết đi con người cũ” (Cl 3,4-10), thì đã hoài thai và lờ mờ tỏ lộ quan niệm “Chết hoàn toàn” này. Cho tới năm mà những tu sĩ đầu tiên của hội dòng phát nguyện vĩnh khấn, tư tưởng này của ngài mới “Chín mùi”.
Có tu sĩ xin linh mục Lôi giải thích cụ thể cảnh giới của tinh thần “Chết hoàn toàn”, ngài ấy đưa ra hai vị thánh nhân làm ví dụ. Một người là Phaolo, vị thánh nhân này nói: “Tôi đã đóng đinh chính mình cùng với Đức Giêsu vào thập giá; tôi sống đã không còn là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Người thứ hai là Thánh Phanxicô năm dấu, khi ngài ấy bị người cha yêu tiền như sinh mạng tước đi quần áo, tuyên bố từ bỏ quan hệ cha con, ngài ấy đã lớn tiếng hô: “Lạy cha của con ở trên trời!”
Cuối cùng, tôi thuật lại một câu chuyện nho nhỏ về bản thân linh mục Lôi. Mùa xuân năm thứ hai mươi bốn Dân Quốc, khi linh mục Lôi ra ngoài làm việc công, Tu Viện nổi lên sóng gió, nó đánh thẳng linh mục Lôi ra khỏi tu viện. Sự tình huyên náo đã đến tai Giám mục Tôn, ngài ấy liền đánh điện cho linh mục Lôi, muốn ngài ấy phải nhanh chóng trở lại để giải quyết sự việc này.
Sau khi linh mục Lôi nhận được tin, mang theo một con tim vỡ nát từ Bắc Bình trở về An Quốc, ngài ấy đi thẳng đến Tòa Giám Mục, mà không hề ghé qua hay trở về Chân Phúc Viện, điều này ra như đang biểu thị ý muốn đoạn tuyệt quan hệ với bổn hội. Động thái này của ngài ấy khiến chúng tu sĩ lo lắng bồn chồn không thôi, lập tức phái ba người đại diện khóc lóc nài nỉ ngài ấy trở về tu viện.
Ba ngày sau, sóng yên biển lặng, mặt trời ấm áp tiếp tục chiếu vào Chân Phúc Viện. Linh mục Lôi lập tức đã quên đi tất cả, ngài ấy đối xử với tu sĩ cầm đầu phong trào còn thân ái hơn cả trước đây nữa. Chúng tôi thán phục tinh thần khoan dung siêu nhiên này của ngài ấy, ngài ấy lại nói với tôi: “Con xem, cha vẫn chưa có chết hoàn toàn!”.
Người quen biết linh mục Lôi đều có thể dễ dàng nhận ra: cuộc sống, sự nghiệp cũng như lời lẽ của ngài ấy luôn tràn đầy “Tính sáng tạo”. Diễn từ và văn chương của ngài ấy không chỉ có tư tưởng mới lạ, dụng ngữ riêng biệt, mà còn đầy rẫy những ví dụ tài tình thỏa đáng, gây ấn tượng cực sâu sắc với mọi người. Hiện tại tôi chỉ có thể nhớ được chút ít, và cũng muốn đem những dụ ngôn thú vị và tràn đầy ý nghĩa mà ngài ấy đã nói qua, thuật lại cho mọi ngươi và thêm chút một chút giải thích làm rõ.
Linh mục Lôi mặc dù ghét người “Thích xoi mói, ưa cằn nhằn và hay báo oán”, thậm chí nhiều lúc còn gọi bọn họ là những kẻ “Mang dáng dấp ruồi nhặng”. Nhưng nếu có người kể khổ và càu nhàu với ngài ấy, ngài ấy vẫn luôn nhẫn nại lắng nghe. Cách làm như thế của ngài cũng không phải không có căn cứ trên tu đức. Ngài ấy nói, người có ý chí tu đức cần phải có sự độ lượng khoan dung với người khác, lắng nghe sự kể khổ của người khác, dung nạp sự cằn nhằn của người khác, không cố ý cãi lại người khác, đồng cảm với người khác, là hành vi đức ái rất cao thượng. Ngài ấy tiếp tục nói, với tư cách là người dẫn dắt đoàn thể, càng phải có sự rộng lượng “Dung nhơ nhập ố”. Ngài ấy dùng ví dụ rất dí dỏm để miêu tả “Lãnh đạo của đoàn thể”, ngài ấy nói người lãnh đạo phải nên giống như chiếc “Thùng rác”, để thu nhận tất cả những phế phẩm ố nhơ ở trong đoàn thể. Ngài ấy còn nói một triết lý thế này: “Một nơi công cộng nếu không đặt thùng rác, nhất định rác rưởi sẽ đầy mặt đất; một cấp trên của cộng đoàn nếu không thể dung nạp những oán hận và cằn nhằn của người dưới, thì cấp dưới ắt sẽ đem những thứ dồn nén tích trữ trong tim, đi khắp nơi phàn nàn kể lể, để giải tỏa những bí bách của mình. Đó tuyệt không phải là một đoàn thể hạnh phúc, cũng không phải là một người lãnh đạo thành công”.
Linh mục Lôi là người ăn nói thẳng thắn, và cũng xem bản thân là một “Thùng rác”. Những khi có người phát tiết một đống cằn nhằn với ngài ấy, ngài ấy sẽ hài hước nói: “Thùng rác tôi này lại thu nhặt được lời to rồi”. Rất nhiều người có thể làm chứng cho linh mục Lôi; ngài ấy không chỉ thường xuyên nhẫn nại lắng nghe những tâm sự của các nam nữ tu sĩ dưới quyền, mà còn rất lạc quan tiếp nhận những lời oán thán của bất cứ ai.
Không ít người sau khi trò chuyện với linh mục Lôi, đã bày tỏ rằng, khó khăn của họ dường như đã vơi đi hơn một nửa. Kỳ thực, linh mục Lôi nói, ngài ấy chẳng có đề xuất giải pháp nào cụ thể cả, chỉ cần để cho người đang gặp khó tận tình kể khổ; thoải mái nói ra những suy nghĩ, những bồn chồn, lo lắng và thất vọng của họ; còn bản thân ngài ấy, chỉ là nhẫn nại lắng nghe, và đáp trả bằng những gam màu đồng cảm, thì đã đủ để giảm bớt những gánh nặng tâm hồn của họ rồi.
Trước đây rất lâu rồi, khi bắt đầu tiến hành vận động “Bãi bỏ quyền bảo hộ, và thành lập Giáo phận địa phương”, linh mục Lôi đã viết cho một vị giám mục ái mộ ngài ấy một bức thư nêu lên ý kiến, đồng thời cũng đem những vấn đề có liên quan đến việc truyền giáo ở Trung Quốc trần tình một cách ngắn gọn và rõ ràng. Người đời sau gọi bức thư dài này là “Đại hiến chương truyền giáo”. Linh mục Lôi dự liệu vị giám mục này sẽ trách cứ ngài ấy nhiều chuyện. Vì vậy, ở cuối thư, ngài ấy dùng những lời hết sức chân thành động lòng người, nói rõ bản thân tại sao lại to gan như vậy kiến nghị với giám mục. Ngài ấy trước tiên đem bản thân so sánh với đứa con trai bé nhỏ Benjamin của giám mục, rồi lại so sánh bản thân như đứa trẻ đã hét lớn “Ambrosio là giám mục của chúng ta”, và cũng lại ví mình như con chó nhỏ sủa gâu gâu, cuối cùng lại so sánh bản thân với con lừa của thầy pháp Bilơam.
“Con lừa của Bilơam” là một trong những câu chuyện nổi tiếng trong Cựu ước. Có một thầy pháp tên là Bilơam, vâng lệnh vua Môáp, đã cưỡi lừa đi xuống phía nam, để nguyền rủa dân Itrael. Thiên sứ của Thiên Chúa giữa đường đã ra tay ngăn cản. ban đầu Bilơam chưa có nhìn thấy Thiên sứ, nhưng con lừa lại nhìn thấy. Con lừa nhìn thấy Thiên sứ chặn đường, thì không chịu tiến về phía trước. Bilơam thấy vậy liền ra sức đánh con lừa. Cuối cùng, con lừa bị bức bách đã nói ra tiếng con người. Bilơam mới hiểu rõ tình hình thực tế, và cũng đã nhìn thấy Thiên sứ đang đứng chắn trước mặt ông (Ds 22).
Linh mục Lôi tự sánh ví bản thân với “Con lừa của Bilơam”, bất cứ ai cũng đều hiểu rõ điều này tượng trưng cho “Thư góp ý” mà ngài ấy đã gửi cho giám mục, đó là hành động cực chẳng đã, hy vọng giám mục có thể hiểu và bỏ qua cho sự to gan của ngài ấy.
Để nói rõ nỗi khổ tâm của ngài ấy, linh mục Lôi đã dẫn thuật một câu chuyện nhỏ. Khi Giáo Triều dựng một “Trụ đá cao ngút trời” tại Quảng Trường Thánh Phêrô ở Rôma, để cho những công nhân chăm chú tập trung kéo dây thừng, Giáo hoàng đã ra lệnh cho tất cả mọi người, bất cứ ai cũng không được nói chuyện. Nhưng khi trụ đá bị kéo nghiêng tới bốn lăm độ, đột nhiên có một sợi dây thừng bị kéo giãn, trong thời khắc “Ngàn cân treo sợi tóc, vạn phần nguy kịch”đó, có người đã chẳng màng mệnh lệnh của Giáo Hoàng mà hét lớn: “Tưới nước lên dây”. Vì thế mà giữ được “Trụ đá ngút trời kia” không để xảy ra bất cứ sự gì nguy hiểm.
— Linh mục Lôi cũng xin Giám mục đừng trách cứ ngài ấy, vì đã nói những lời mà những nhà truyền giáo bình thường không dám nói.
Sau khi công đồng Vaticano II kết thúc không lâu, báo chí Công Giáo đều đăng tải lời cảm ơn mà Giáo hoàng Phaolo đệ Lục đã phát biểu trong dịp kim khánh linh mục của ngài ấy ở một vị trí rất nổi bật. Trung tâm của bài phát biểu này là sự thương cảm của ngài ấy đối với “Những linh mục hoàn tục”, và sự hân hoan vui mừng của ngài ấy đối với “Những linh mục trung thành”. Ngài ấy gọi “Những người rời bỏ chức thánh” (Ngay cả những tu sĩ nam nữ từ bỏ lời khấn cũng nằm trong số này) là những chiếc gai trên vương niệm của ngài ấy.
Khi mọi người đang thảo luận lời cảm khái của Giáo hoàng, có người đã hỏi tôi, linh mục Lôi khi còn sống đối với hành vi “Rời bỏ ơn gọi”, có cái nhìn và thái độ như thế nào? Tôi nhớ lại một chút, rồi đem những lời nói và câu chuyện của linh mục Lôi có liên quan đến vấn đề này, làm thành một tổng hợp trọng điểm, mô tả ngắn gọn như sau:
Tháng mười, năm thứ tám Dân Quốc, vì sự kiện “Lão Tây Khai” ở Thiên Tân, Thánh Bộ La Mã đã phái Giám mục Quang, Tu Sĩ Hội Truyền Giáo Pari, tới Bình Tân-Thượng Hải, điều tra chân tướng. Trong lúc điều tra những người này đã nhiều lần triệu kiến Linh mục Lôi để dò hỏi về sự việc ấy. Giám mục Quang đối với những việc làm của Linh mục Lôi và phương châm truyền giáo của ngài ấy đều rất hài lòng, nhưng chỉ có một điểm ngài ấy rất lấy làm băn khoăn. Dưới đây là cuộc đối thoại của Giám mục Quang và Linh mục Lôi:
— Linh mục Lôi, ngài mở miệng là nói Trung Quốc tốt, ngài ngậm miệng là nói yêu Trung Quốc; ngài cả ngày cổ vũ giáo dân Trung Quốc yêu Trung Quốc, ngài lại không yêu bổn quốc (nước Bỉ) của ngài, điều này đối với giáo dân Trung Quốc là biểu hiện tồi biết bao!
— Xin Giám mục trước tiên hãy trả lời mấy câu hỏi của con: khi chiến tranh thế giới thế nhất, Hoàng Hậu nước Bỉ là người nước nào?
— Người Đức.
— Khi đại chiến bắt đầu, bà ấy kêu gọi kháng Đức, hay là chủ trương đầu hàng Đức?
— Uhm! …… (Giám mục không trả lời)
— Theo như con biết, vận động cứu nước Bỉ mà bà ấy làm còn nhiệt liệt hơn cả Quốc Vương Bỉ.
— Hoàng Hậu nước Bỉ không giống ngài, bà ta và Quốc Vương Bỉ đã kết hôn rồi, bà ta đã trở thành người Bỉ.
— Vậy thì, xin hỏi chiếc nhẫn trên tay Giám mục có ý nghĩa gì?
— Bản thân ngài giải thích đi! (Giám mục có chút không kiên nhẫn)
— Nó không phải tượng trưng Giám mục đã kết hôn với Giáo hội Trung Quốc sao? — Con mặc dù là một vị Linh mục bé nhỏ, con cũng đã theo Giám mục kết hôn với Giáo hội Trung Quốc rồi.
— Ngài nói có lý, nhưng ngài là một “Quái nhân”!
— Con nguyện ý làm một “Quái nhân”. Con đã hiến thân cho Giáo hội Trung Quốc, và đã kết hôn với nó, con cần phải yêu Trung Quốc hơn, phải trung trinh đối với nó hơn nữa.
Tinh thần “Trung thành với thánh chức” của Linh mục Lôi có thể nói là tinh thần căn bản “Vì người mà làm việc; vì Thiên Chúa mà phục vụ” của ngài.
Sau khi ngài ấy qua đời, câu đối phúng điếu của Chủ Tịch Tưởng dành cho ngài ấy, đã biểu dương loại tinh thần này của ngài ấy. Câu đối phúng điếu ấy như sau:
“BÁC ÁI CHI VỊ NHÂN CỨU THẾ TINH THẦN VÔ QUÝ KITÔ; UY VŨ BẤT NĂNG KHUẤT TẤT SINH SỰ NGHIỆP TẪN TỤY TRUNG HOA”.
KINH QUA THỬ THÁCH
Hành vi anh hùng “Trung thành với ơn gọi” của linh mục Lôi chẳng phải là ngồi mát ăn bát vàng, với tay cái là lấy được, nhưng nó là thành quả sau khi đã trải qua sự chiến đấu anh dũng với nhiều hy sinh tráng liệt. Hay nói cách khác, ngài ấy cũng gặp qua những “Nguy hiểm cho ơn gọi”, nhưng ngài ấy cuối cùng cũng đã chiến thắng.
Đại khái là một năm trước khi ngài ấy chính thức nhập Tu Hội Truyền Giáo Vinh Sơn, trong một lần tình cờ, ngài ấy đã gặp một thiếu nữ trạc tuổi. Ngài ấy đã yêu cô gái ấy ngay cái nhìn đầu tiên, nhưng lại chẳng có tỏ lộ, mà chỉ âm thầm yêu cô ấy. Tuy nhiên, Ngài ấy đối với mối tình đơn phương này chẳng hề giữ bí mật cực đoan như những người khác, ngài ấy nói cho bố mẹ, cho vị linh hướng, và cũng nói cho người em trai “Tuy hai mà một” của ngài ấy.
Để giành lấy tình yêu của thiếu nữ ấy, ngài ấy đã ngây thơ cùng với người em ấu trĩ dựng lên một kế hoạch rất cẩn thận và tỉ mỉ: “Chúng tôi nhân cơ hội khi Lôi Úc Bảo đệ Nhị đi tản bộ bên sông, đẩy anh ta xuống nước, sau đó cứu anh ta lên, thúc ép anh ta phong cho tôi tước vị hiệp sĩ. Khi ấy, tôi liền có thể cầu hôn cô ấy rồi”.
Em trai ngài ấy sau này thuật lại chuyện này nói: “Khi ấy chúng tôi chẳng hề cho rằng đấy là suy nghĩ ấu trĩ đáng cười và nguy hiểm, chúng tôi thực sự đã suy nghĩ nhiều lần và cũng rất chăm chỉ đi thực hiện như thế”.
Là ai đã cứu linh mục Lôi thoát khỏi nguy cơ đánh mất ơn gọi này thế? Chính là mẹ của ngài ấy, cũng có thể nói là do chính thiên tính “Trung thành với lời hứa” của ngài ấy, đã cứu vớt chính ngài. Vì sự nhắc nhở của mẹ, đứa trẻ Lôi Minh Viễn ngày ấy đã nhớ lại bản thân khi mười một tuổi đã hứa gì với Thiên Chúa: sẽ gia nhập Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn, và tới mảnh đất Trung Quốc truyền giáo. Ngài ấy cho rằng lời hứa này có tính quan trọng giống như “Giấy đính hôn”. Vì thế, Ngài ấy đã vô cùng hối hận vì bản thân bất trung với Thiên Chúa, nên đau đớn hạ quyết tâm, lần nữa kiên định với ơn gọi của mình. Mười tám tuổi, ngài ấy chính thức gia nhập tập viện của Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn.
TRUNG TRINH TỚI CÙNG
Viết đến đây, sợ rằng có người lại muốn đặt ra chất vấn: linh mục Lôi vốn là tu sĩ Tu Hội Truyền Giáo Vinh Sơn, sau này mới chuyển sang gia nhập Dòng Gioan Tẩy Giả, thì trong một nghĩa nào đó, làm sao có thể tính là “Trung trinh tới cùng” với ơn gọi vậy!
Việc này nói ra thì dài, ở đây chỉ nhắc lên hai điểm, để mọi người có thể tỏ chân tướng sự việc.
Đầu tiên, việc thành lập và huấn luyện tu sĩ của bổn hội, mặc dù là do một tay linh mục Lôi đảm trách. Nhưng thời kỳ đầu, ngài ấy vẫn dùng thân phận “Tu Sĩ Tu Hội Truyền Giáo Vinh Sơn”, đại diện giám mục Tôn quản lý bổn hội. Tu sĩ bổn hội mặc dù ba lần bảy lượt nghiêm túc yêu cầu ngài ấy chuyển dòng, và chính thức làm hội trưởng của bổn hội. Nhưng mỗi lần như vậy, ngài ấy đều thẳng thừng từ chối, và răn dạy chúng tôi: “Ơn gọi đại sự không thể xem nhẹ việc này; nếu không có chỉ thị minh nhiên của Thiên Chúa, tuyệt không thể tùy ý thay đổi”.
Lần khác, khi lâm vào tình thế khách quan không thể không quay sang gia nhập bổn hội, ngài ấy vẫn như cũ không tự mình ra quyết định. Ngài ấy hướng về vị đại diện Tòa Thánh nói: Chuyển sang Dòng Gioan Tẩy Giả không phải là ý nguyện của con, mà là mệnh lệnh của ngài, ngài chính là đại diện của Thiên Chúa vậy!”.
Trên thực tế, thư cho phép linh mục Lôi “Rời khỏi Tu Hội Truyền Giáo Vinh Sơn, và gia nhập bổn hội” của Thánh Bộ Rôma và Tổng Hội Tu Hội Truyền Giáo Vinh Sơn rất nhanh thì đã được gửi đến, kèm thêm nhiều lời động viên. Thánh Bộ đã phá lệ miễn trừ cho linh mục Lôi thực hiện thời gian nhà tập theo nội quy của bổn hội, trực tiếp phát nguyện vĩnh khấn, và chính thức phê chuẩn ngài ấy làm hội trưởng tiên khởi của bổn hội.
Thái độ và cách nhìn của linh mục Lôi với ơn gọi cũng là niềm vui mà giáo hoàng Phaolo đệ Lục đã nhắc đến trong ngày Kim khánh Linh mục của bản thân, đó thật sự có thể nói là niềm vui thanh thản của “Trung tín đến cùng”.
LINH MỤC LÔI, KHÔNG TRÁNH NẮNG SAO?
Mùa hè ở Trung Quốc Đại Lục, ngay cả ở tỉnh Hà Bắc thuộc ôn đới cũng nóng hơn rất nhiều so với Đài Loan, nơi thuộc luồng khí hậu Hải Dương. Đặc biệt tại An Quốc, miền trung bộ Hà Bắc, nơi đặt Tổng Viện Dòng Gioan Tẩy Giả, và cũng là nơi mà cát còn nhiều hơn cả đất, thì cái nóng phải nóng đến cỡ nào?
Vào tháng bảy và tám, mặt trời chiếu rực rỡ, cái nóng ở nơi đây thực sự rất bức người. “Giống như trong lồng hấp”, “Mồ hôi đổ như mưa” là những cụm từ chỉ tạm đủ hình dung tình hình thực tế của cái nóng ở xứ này. Vậy nên, ở Phương Bắc Đại Lục, nghỉ hè thường cũng được gọi là thời gian “Nghỉ nóng” hoặc là “Tránh nắng”, có thể hình dung, đó là thời gian mà nắng nóng cực thịnh, khiến cho người ta rất khó khăn ra đồng làm việc.
Cách nhìn của vĩ nhân rốt cuộc chẳng có giống người xoàng xĩnh, linh mục Lôi có phải vĩ nhân hay không? Để lịch sử trả lời. Thứ tôi có thể nói đó là, ngài ấy dường như chẳng cảm thấy sự tồn tại của “Lạnh, nóng, gió, mưa”. Trong tâm trí của ngài ấy thì chẳng có quan niệm “Nghỉ nắng hay tránh nóng”. Ngài ấy vì điều chỉnh hay chí ít là giảm bớt tâm lý “Sợ nắng” của các tu sĩ, đã soạn nên một bài hát độc đáo, lệnh cho chúng tôi trước mỗi khi làm việc trong mùa nắng nóng, đều phải xướng lên một lần. Ca từ như sau: “Anh em thân mến, hôm nay đã là (đầu, trung, cuối) phục rồi — Alleluia” — kể ra cũng thật có chút kỳ diệu, vừa hát xong, liền cảm thấy khí nóng đã tiêu giảm đi rất nhiều; hơn nữa, làm việc dưới cái nắng gay gắt, mặc dù mồ hôi đổ như mưa, nhưng tấm lòng thì luôn luôn rộng mở, tinh thần theo đó cũng phấn chấn và hăng hái vô cùng. Thật kỳ diệu phải không?
Một buổi chiều cuối tháng bảy, huyện trưởng Trương mặc thường phục, tay cầm chiếc quạt nan, phong thái nho nhã đi đến Chân Phúc Viện thăm linh mục Lôi. Huyện trưởng Trương nhìn thấy linh mục Lôi mồ hôi nhễ nhại đang ngồi ngay ngắn viết gì đó trên bàn; trên cổ còn quấn một chiếc khăn, để tránh cho mồ hôi khỏi rơi xuống thư từ giấy tờ. Huyện trưởng Trương liền hỏi:
— Linh mục Lôi, thời tiết nóng như vậy, ngài không đi tránh nóng sao?
— “Chúng tôi căn bản không có nghỉ hè, thay đổi công việc là nghỉ ngơi!” Linh mục lôi đáp.
— Thế à! Các ngài quá vất vả rồi, đơn giản là đang ngược đãi bản thân ấy!
— Không thể nhìn thế được! ngài xem (lấy tay chỉ ra ngoài cửa sổ) những tu sĩ đang ngồi nghỉ ngơi dưới bóng cây kia, mặc dù mồ hôi đổ như trút, nhưng dáng vẻ cực vui mừng, ngay cả những quan chức hay doanh nhân đang trốn nắng ở Bắc Đới Hà kia (địa danh trốn nắng ở tỉnh Hà Bắc), cũng chưa chắc đã vui vẻ như thế.
— Thứ triết học nhân sinh này của ngài, mặc dù có chút cầu tục, nhưng lại là những lời lẽ chí lý. Nhưng cũng chỉ có ngài có sự “Ngốc nghếch” này. Nói đi cũng phải nói lại, nhờ cái tinh thần “Xóa mình lợi người” này của ngài, nên người ta mới cực kỳ tín nhiệm ngài. Mùa đông năm ngoái, ngài chỉ viết một phong thư, liền có thể quyên được hai ngàn đồng bạc từ “Hội Cứu Tế Hoa Dương” Thượng Hải, để cứu trợ nạn dân. Không chỉ tôi không có sức mạnh này, mà tin tưởng những quan chức hay doanh nhân đang tránh nắng ở Bắc Đới Hà kia cũng chẳng thể có cái năng lực ấy.
Linh mục Lôi khi nghe xong một tràng lời tán tụng này của Huyện Trưởng Trương, thì chẳng giống như người bình thường dùng “Đâu có! Đâu có!” hay “Nào dám! Nào dám!” để đáp lời; nhưng người ấy lại thản nhiên đáp: “Nguyện cho người người đều như thế!”
Thế là hai người cùng cười phá lên thật to: hahahha…
XỨNG ĐÁNG! XỨNG ĐÁNG!
Trong phòng dệt vải của Chân Phúc Viện, trên bức tường đối diện máy dệt vải có một bức biểu ngữ ghi: “Xứng đáng! Xứng đáng!” Đây là câu nói bi tráng mà linh mục Lôi chọn ra từ trong tiểu sử của Chân Phúc Tử Đạo Trung Hoa, tên gọi Dịch Trân Mỹ.
Khi Dịch Trân Mỹ bị viên quan ghét đạo áp giải tới pháp trường xử tử, vị hôn phu và người nhà của cô ấy nước mắt ràn rụa theo sau đoàn hộ tống, Dịch Trân Mỹ dũng cảm quay đầu khuyên mọi người đừng khóc, và nói mấy câu đạo lý cao diệu tinh tế: “Khổ nhục đang chịu và án tử không lâu nữa phải chịu, nếu làm một so sánh với cái giá của nó là phúc vinh muôn đời, thì thực sự xứng đáng, thực sự có lời rồi”. Sau đó, cô ấy vừa đi, vừa lặp lại: “Xứng đáng! Xứng đáng! Thực sự xứng đáng!”
Linh mục Lôi đem câu nói hùng tráng này làm lời răn cổ vũ chúng tôi. Mỗi lần có tu sĩ kể khổ, linh mục Lôi luôn nói nhỏ nhẹ: “Người anh em tốt! Xứng đáng! xứng đáng!” Sau này ngài ấy đem lời ấy dán lên trên bức tường trong tu viện.
Ngày kia, là một ngày oi ả nóng bức, linh mục Lí Hiểu Nhiên đến giảng dạy giáo lý cho chúng tôi, trước khi giảng bài chính, ngài ấy trước tiên đã phát biểu một đoạn cảm nghĩ rất sâu sắc, ngài ấy nói: “Vừa rồi, khi tôi đi đến lớp, đi qua phòng dệt vải, linh cảm nhất thời vụt qua, khiến tôi dừng lại bên cửa sổ, thưởng thức một vở hoạt kịch động lòng người. Vị tu sĩ dệt vải kia mặc dù đang đạp máy dệt, nhưng tầm mắt lại liên tục phóng vào tấm biểu ngữ trên tường, cho dù mồ hôi nhễ nhại lăn đầy trên má, nhưng nụ cười lại chưa bao giờ dứt trên khuôn mặt của ngài ấy, dường như tất cả đều đang muốn nói: “Xứng đáng! Xứng đáng! Thật sự xứng đáng!”
“Trước đây, cha luôn nghĩ: với đức độ tài trí, khả năng ăn nói, tiếng tăm, quan hệ xã hội,…của linh mục Lôi, nếu ở Thiên Tân, ắt sẽ phát huy tác dụng lớn hơn nhiều. Nguyên bài giảng Thánh Lễ Chủ Nhật mà ngài ấy giảng, nếu giảng ở Đại Thánh Đường Thánh Phêrô ở Rôma, hay ở Nhà Thờ Đức Bà Pari, thì tuyệt nhiên cũng chẳng thua kém ai. Đáng tiếc, ngài ấy bây giờ lại bị giam lỏng ở giáo phận An Quốc nhỏ bé này, cả ngày làm bạn với chúng ta, gặm bánh mỳ,… thực sự không xứng đáng mà”.
Sau này, khi tôi và linh mục Lôi trò chuyện, đã đem suy nghĩ trên tỏ lộ cho ngài ấy. Ngài ấy nghe rồi, ôm đầu một cái, hai mắt hướng lên trời, sau đó lướt nhanh nhìn tôi, vỗ vỗ cánh tay tôi, và nói nhẹ nhàng: “Xứng đáng! Xứng đáng! Thực sự xứng đáng!”
VĨNH VIỄN TÍCH CỰC
Ngày mười chín, tháng tám, năm một chín ba sáu là ngày sinh lần thứ 60 mươi của linh mục Lôi — ngài ấy sinh năm 1877, năm nay chính là “Năm đại thọ hoa giáp” của ngài ấy.
Hôm ấy, Chân Phúc Viện An Quốc đã tổ chức nhiều hoạt động khác nhau để chức mừng cho ngày trọng đại này. Thánh lễ, tiệc mừng và nhiều hoạt động giải trí khác,… Tất cả đều được chúng tôi bí mật chuẩn bị. Ở đây, tôi chỉ thuật lại một số câu chuyện nhỏ thể hiện tinh thần tu đức sâu thẳm của linh mục Lôi mà thôi.
Ngày hôm đó, Báo Ích Thế ở Thiên Tân, vì để chúc mừng Đại Thọ Hoa Giáp của linh mục Lôi, đã xuất bản một tập san kỷ niệm. Với nền tu đức sâu sắc, với những chiến công hùng vĩ được nhiều người biết tới, với những thành tích đáng ngưỡng mộ,… trong cả cuộc đời của linh mục Lôi, Báo Ích Thế đã chẳng tốn quá nhiều lao khổ để viết ra những từ ngữ đầy trọng lượng để kỷ niệm cái ngày đặc biệt này của linh mục Lôi; nhưng thứ khiến cho người ta cảm động không thôi lại chính là những lời cảm tưởng ngắn gọn của chính linh mục lôi viết cho cái tuổi sáu mươi của bản thân, trong đó có những lời sâu sắc như thế này: “Thế giới quá rộng lớn, việc nên làm vì thế cũng rất nhiều. Bản thân nếu vì mình, một phút một giây cũng không nguyện sống, nhưng nếu vì người vì việc, chín mươi chín năm cũng chẳng kể là nhiều. Tôi nay mới sáu mươi, tôi vẫn phải sống tiếp sáu mươi năm nữa. Làm việc, luôn luôn làm việc; tích cực làm việc, luôn luôn tích cực làm việc!”
Tuy nhiên, thời gian chẳng bỏ qua người nào. Thực tế, thể lực của linh mục Lôi khi ấy đã bắt đầu giảm sút. Nhưng ý chí mạnh mẽ của ngài ấy quyết không đầu hàng, cũng không nguyện ý để mọi người gọi ngài ấy là một ông già, ngài ấy tự gọi mình là “Thanh niên lục tuần”. Ngài ấy không chỉ nói như vậy, mà còn lấy hành động để thể hiện ra điều ấy. Đầu tiên, ngài ấy cảm ơn và cự tuyệt dùng “Xe máy” thay đi bộ. Vốn dĩ vài năm trước, ngài ấy đã hứa khi sáu mươi tuổi sẽ chấp nhận đề nghị của chúng tôi, chuyển sang dùng “Xe máy”. Hiện tại mặc dù đã tròn năm hoa giáp, ngài ấy lại lên tiếng phế bỏ lời hứa trước đây, vì ngài ấy cho rằng, bản thân vẫn là thanh niên, vẫn phải tiếp tục dùng “Xe đạp”.
Ý chí kiên cường của linh mục Lôi, tinh thần “Cố chấp với chọn lựa tốt”, thực sự vượt quá ý liệu của người bình thường. Sau sáu mươi tuổi, ngài ấy vẫn đạp xe đạp vun vút như bay, ngay cả tu sĩ trẻ theo ngài ấy cũng thường phải hít khói, luôn phải đuổi theo phía sau. Từ An Quốc tới Bắc Bình, ước khoảng 200km, ngài ấy vẫn như cũ đạp xe đi trong một ngày thì đã tới rồi.
Năm hai mươi sáu Dân Quốc, năm thứ hai kháng chiến bùng nổ, ngài ấy miệt mài dẫn dắt chúng tôi đi cứu giúp thương binh ở dãy núi Thái Hành. Khi hành quân hoặc chuyển thương binh, ngài ấy đều đi bộ như bay, chẳng biểu thị chút thua kém nào với đám thanh niên chúng tôi. Người bên cạnh thường nhận xét ngài ấy khi đi bộ, hai bước làm thành một bước.
Ý chí kiên cường của linh mục Lôi, không chỉ ép buộc thân xác duy trì sức sống thanh xuân, mà còn khiến tư tưởng chấp nhận nhiều thứ tiến bộ mới mẻ, tinh thần làm việc cũng phải trở nên hoạt bát tích cực. Ngài ấy với việc phải làm thì chẳng phân lớn nhỏ cao thấp, nhưng luôn nghĩ cách hoàn thành trọn vẹn, không cúi đầu trước hoàn cảnh khó khăn. Ngài ấy làm việc đương nhiên có kế hoạch, nhưng cũng giống như những thanh niên bình thường khác, ngài ấy rất ít khi tỏ ra căng thẳng âu lo. Bí quyết duy nhất khi ngài làm việc là “Chỉ cần làm, ắt sẽ có biện pháp; lo lắng không làm, mãi mãi chẳng có biện pháp”. Ngài ấy căn cứ vào thứ triết lý này để làm việc, tuy nhiên cũng có những lúc thất bại, nhưng số lần thành công thì lớn hơn nhiều.
Linh mục Lôi không sợ chết, lại cũng chẳng nguyện chết sớm. Lý do duy nhất chính là ngài cảm thấy, việc được phục vụ Thiên Chúa và anh chị em là công việc quá đỗi có ý nghĩa. Vì vậy, khi ngài cảm thấy bản thân sắp đối mặt sự chết, ngài ấy vẫn không thay đổi thái độ “Tích cực làm việc”. Ngài ấy nói: “Sau khi tôi chết vẫn muốn cầu nguyện cho Trung Quốc kháng chiến thắng lợi”.
Làm việc! Tích cực! Mãi mãi tích cực!
CƯƠNG NHU KẾT HỢP
“Đối mặt với chân lý, bất khuất không nao núng; thái độ đối với người, từ ái ngày càng tăng”.
Đây cũng là một loại tinh thần đối nhân xử thế của linh mục Lôi. Ngài ấy đối đãi với tu sĩ bổn hội luôn yêu thương như từ mẫu; nhưng đối với tinh thần Phúc Âm, ngài ấy luôn luôn sẽ trọng quy định, giữ vững tựa như núi, một chút cũng chẳng châm chước. Mỗi lần có tu sĩ vi phạm quy tắc, ngài luôn nói cách vui vẻ hòa nhã: “Anh em thân mến, nên hay không nên chịu trừng phạt đây?” Sau khi đối phương thừa nhận, liền liệu hình phạt nghiêm khắc tương đương. Ngài ấy đối đãi với những nhà truyền giáo phản đối thành lập “Giáo phận địa phương” cũng thế, luôn luôn duy trì một tình hữu nghị sâu sắc, nhưng đối với mọi hình thức vận động thúc đẩy thành lập “Giáo phận địa phương”, ngài ấy một chút cũng không khoan nhượng. Phía dưới tôi kể rõ một câu chuyện “Cương nhu kết hợp” , thể hiện tinh thần trên của ngài ấy.
Năm 25 Dân Quốc, ông Lưu Hoát Hiên, giám đốc Báo Ích Thế Thiên Tân vì một số lý do mà từ chức, vì thế linh mục Lôi đã bổ nhiệm ông Lý Độ Nhị Quân kế nghiệm. Người này tỏ ra là người rất ngoan đạo và hiền lành, nhưng nội tâm lại rất khó đoán. Nhớ sau khi anh ta nhận chức giám đốc, liền đến Chân Phúc Viện An Quốc, đặc biệt đi gặp gỡ và thỉnh ý linh mục Lôi.
Giữa đêm, linh mục Lôi đã đặc biệt triệu tập các tu sĩ đón tiếp anh ta, và nghe anh ta báo cáo tình hình gần đây của Báo Ích Thế, cũng như những kế hoạch tương lai của anh ta. Khi nghe như vậy, mọi người đều có thiện cảm rất tốt đối với cá nhân anh ta, nào là đời trước của nhà anh ta có những người tuẫn đạo, bản thân anh ta là cán bộ của hội công giáo tiến hành, tương lai sẽ phục vụ giáo hội như thế này, sẽ làm quyên góp như thế kia để giúp đỡ bổn hội khuếch quang sự nghiệp, đồng thời hoan nghênh linh mục Lôi phái tu sĩ tới tòa báo làm việc. Một đống những lời đường mật khiến một người mệnh danh là “Kẻ ngốc nghếch chân thành” như linh mục Lôi nghe rồi cũng lấy làm rất vui vẻ. Đám tu sĩ chúng tôi cũng cảm thấy linh mục Lôi lần này “Dùng đúng người” rồi.
Nhưng thật không ngờ, niềm vui ngắn chẳng tày gang, họ Lý sau khi tiếp nhận chức vụ, không tới ba tháng, liền bắt đầu tỏ lộ bản chất, không chỉ đi ngược lại với những chỉ thị quan trọng của linh mục Lôi, mà còn ngang nhiên phá bỏ nhiều truyền thống thiện hảo ở Báo Ích Thế. Ví dụ như: anh ta sắp đặt người nhà, dùng sai chức vụ nhân viên, tiếp nhận người quen, xây bè dựng cánh ăn chặn các loại phụ cấp khác, đặc biệt là vi phạm nguyên tắc căn bản của Báo Ích Thế, đem cổ phiếu nhượng lại cho nhân sĩ ngoại giáo. Sau đó còn tự ý triệu tập hội họp, đề cử họ Diễm, một nhân sĩ ngoại giáo làm chủ tịch, mưu đồ chiếm đoạt Báo Ích Thế.
Khi ấy, đại đa số cổ đông nghe tin đều cực kỳ nổi giận, lần lần viết thư đôn đốc linh mục Lôi sa thải họ Lý. Linh mục Lôi cũng vội vã đến Thiên Tân chất vấn họ Lý, anh ta cảm thấy quyền lợi của mình lung lay dữ dội, nên đã lập tức giả vờ nhận lỗi và xin tha thứ, mong ước linh mục Lôi cho anh ta cơ hội tự sửa đổi. Linh mục Lôi vẫn lấy nguyên tắc “Lấy đức đãi người”, yêu cầu họ Lý ký vào văn bản với một số điều kiện thì sẽ tha thứ cho anh ta, và tiếp tục để anh ta nắm giữ chức vụ giám đốc, điều khiển tòa báo.
Nhưng, sau khi linh mục Lôi trở về An Quốc, họ Lý lại mượn cớ dây dưa, không thực hiện những điều đã hứa. Linh mục Lôi lại lần nữa phải đích thân qua Thiên Tân xử lý việc này. Họ Lý lại một lần nữa khóc lóc cầu xin, quỳ xuống xin tha thứ, linh mục Lôi lần nữa cho anh ta cơ hội thay đổi, chẳng có lập tức sa thải anh ta. Nhưng đợi khi linh mục Lôi đi rồi, họ Lý không những không hối cải, mà còn ngày càng quá quắt hơn, ngấm ngầm mời họ Diễm, chủ tịch hội đồng giả dùng vũ lực chiếm lấy tòa báo, lấy danh nghĩa chủ tịch chủ trì tất cả mọi việc.
Đến nước này, linh mục Lôi vì chân lý, vì lợi ích của giáo hội, vì lợi ích của đại đa số cổ đông, đau lòng hạ quyết tâm, kiên quyết dùng bàn tay sắt xử lý việc này.
Cuối tháng 5 năm 26, linh mục Lôi dẫn hai tu sĩ chúng tôi lặng lẽ đi Thiên Tân, tới phòng kế toán của Giáo xứ Phanxicô, bí mật triệu tập tổng biên tập, tổng kiểm toán, chủ nhiệm phát hành và ông Sinh Bảo Đường, giám đốc mới của Báo Ích Thế hội họp tìm cách xử lý. Sau ba ngày chúng tôi xây dựng và bố trí kế hoạch, thế là ba giờ sáng ngày mùng hai tháng sáu cùng năm, chúng tôi đến tòa Báo Ích Thế, lập tức đăng thông báo trên vị trí nổi bật nhất của Báo Ích Thế ngày hôm đó, đăng tin giải trừ chức vụ giám đốc của họ Lý, và bổ nhiệm ông Sinh Bảo Đường kế nhiệm chức vụ giám đốc. Thông báo tương tự cũng được dán trực tiếp ở cửa của tòa soạn.
Ngày hôm sau, họ Lý và họ Diễm đọc báo, biết đại sự không thành, cũng chẳng dám đến tòa soạn. Chúng tôi ung dung đem nhân sự sắp xếp lại. họ Lý sau này mặc dù cũng đăng báo gièm pha bêu xấu, nhưng các cổ đông và giáo chức Bình Tân, luôn đánh điện và gửi thư nhất tề ủng hộ cách xử trí của linh mục Lôi. Họ Lý mặc dù không ngừng múa võ giương oai bên ngoài, những cũng chẳng thể làm được gì. Sau này, họ Lý và họ Diễm cũng kiện ra tòa, nhưng không lâu thì biến sự “Thất thất” nổ ra, Bình Tân bị chiếm đóng, những công án chưa giải quyết cũng chỉ biết “Rơi vào quên lãng” mà thôi.
Cách xử lý của Linh mục Lôi đã thể hiện rõ ràng tinh thần “Nặng nhẹ tương trợ, cương nhu song hành” của ngài ấy vậy.
LỄ PHẨM GIÁNG SINH TUYỆT VỜI NHẤT
Mấy ngày trước Lễ Giáng Sinh năm hai mươi Dân Quốc, có một vị trung niên xa lạ đã đến Chân Phúc Viện An Quốc, người này vóc dáng vừa phải nhưng ngũ quan rất thanh tú. Anh ta mặc chiếc áo dài lụa màu nâu, bên ngoài khoác thêm chiếc áo satanh màu đen; cách ăn mặc này càng khiến anh ta thêm phần nho nhã và kiệt xuất. Anh ta đứng trước một Lôi Minh Viễn vóc dáng nhỏ thó gầy còm, mặc thứ quần áo thô sơ bạc màu, thực sự là một sự đối sánh cực kỳ rõ ràng.
Hai người vừa nhìn thấy nhau tựa như tri kỷ cực kỳ thân thiết, chẳng khách sáo nhưng cũng không suồng sã, thân mật nói nhỏ với nhau đôi ba câu, rồi liền cùng nhau đi tới Tòa Giám Mục bái kiến giám mục Tôn Đức Trinh, người đứng đầu giáo phận. Giám mục nhìn thấy hai người, vừa vui mừng vừa cảm động, một mặt bắt tay khách, biểu thị sự hoan nghênh, một mặt nói với linh mục Lôi: “Đây quả thực là lễ phẩm Giáng Sinh tuyệt vời nhất mà ngài năm nay tặng cho giáo phận!”. Giám mục Tôn trong lời thân mật này đã bao hàm một câu chuyện cực kỳ động lòng người.
Từ khi thành lập giáo phận địa phương, sau khi linh mục Lôi lần thứ hai đến Trung Quốc, các giám mục giáo phận lần lần đều mời linh mục Lôi đến hướng dẫn những cuộc tĩnh tâm năm hoặc những dịp đại tĩnh tâm đặc biệt của các linh mục giáo phận cũng như các tu sĩ nam nữ.
Sau mùa thu, năm thứ hai mươi Dân Quốc, linh mục Lôi theo lời mời gọi của giám mục Trình, lần nữa ghé bước qua Tuyên Hóa, chủ trì buổi tĩnh tâm năm cho các nhân viên thánh chức trong giáo phận.
Buổi trưa hôm ấy, khi kỳ tĩnh tâm chuẩn bị kết thúc, giám mục Trình đã đặc biệt mở tiệc thiết đãi mọi người. Trong bữa tiệc ngoại trừ các linh mục của giáo phận, còn có một vị trung niên “Trang phục bình thường”, nhìn rất giống những “Thân sĩ địa phương”. Sau bữa tiệc, giám mục cũng mời mọi người đến phòng khách uống cà phê. Khi mọi người đang vui vẻ trò chuyện nói cười, giám mục vỗ tay xin mọi người chú ý một chút, sau đó bắt đầu nói:
“Đầu tiên là cảm ơn linh mục Lôi đường xá xa xôi đến hướng dẫn tĩnh tâm” giám mục đang nói, liền tạm dừng chút ít, các linh mục lần lần hướng về phía linh mục Lôi vỗ tay. Sau đó, giám mục tiếp tục nói: “Lần tĩnh tâm này, nghe bài giảng đặc sắc động lòng người của linh mục Lôi, lại nhìn thấy biểu cảm của mọi người sau tĩnh tâm, tôi cảm thấy đây là lần tĩnh tâm tuyệt vời nhất từ khi sinh ra đến giờ, tôi nghĩ mọi người cũng có sự đồng cảm như thế”.
“Nhưng” giám mục nén âm thanh lại rất nhỏ: “Vết xước trên ngọc duy nhất là linh mục Bùi vẫn chưa có mặt để tham dự lần tĩnh tâm tuyệt vời này. Ngài ấy mặc dù trang phục giống như một vị đại thân sĩ, nhưng trên thực tế lại là huynh đệ của chúng ta. Cá tính của ngài ấy, mọi người đều biết, tương đối kiên cường. Quá khứ vì bất mãn với cung cách của giám mục ngoại quốc, nhất thời nóng giận, cuối cùng đã bỏ lại chức thánh mà hoàn tục, ở nhà trợ giúp cha mẹ anh em mở cửa hàng tơ lụa và satanh, may là vẫn chưa kết hôn. Hiện nay bổn giáo phận do giáo phận ngoại quốc chia ra, đã để người Trung Quốc chủ trì, ngài ấy thực sự chẳng có lý do gì tiếp tục ở lại gia đình. Tôi đã nhiều lần khuyên ngài ấy trở lại, hoặc gia nhập một giáo phận địa phương khác, đến bây giờ ngài ấy vẫn là do dự không thôi. Đại tĩnh tâm lần này, trước đó có mời ngài ấy đến tham gia, nhưng thực tế vẫn khác xa ý nguyện, mộng ước vẫn chưa thể thành toàn, đó quả thực là sự tiếc nuối khó nói thành lời…!” Giám mục bỏ ngỏ lời nói của mình, im lặng và ngồi xuống. Các vị linh mục có mặt thì thay nhau tiếp lời ấy: “Tiếc thật! Tiếc thật! Thật sự quá đáng tiếc rồi!”
Nhân vật anh tuấn trung niên dáng vẻ “Thân sỹ” ấy, khi ấy không thể nhịn thở, liền lớn tiếng nói: “Giám mục đừng nói như vậy!” đã biểu hiện cách đầy đủ tính cách quật cường của ngài ấy. Lời này của ngài ấy khiến cục diện trở nên bế tắc, mọi người đều nín thở tập trung, không biết phải nói gì cho tốt, nhất thời không khí trở nên rất căng thẳng.
Đột nhiên, linh mục Lôi phá vỡ sự căng thẳng ngột ngạt ấy, ngài ấy chẳng nói chẳng rằng, chỉ là đứng đậy, mặt mày hớn hở, tâm thái trong sáng vô tư đi thẳng đến phía người trung niên “Dáng thân sĩ” nọ.
“Ùm” một tiếng! Linh mục Lôi quỳ xuống.
“Ngài không đáp ứng trở lại, tôi sẽ không đứng lên.” Linh mục Lôi liền ngả bài.
“Linh mục Lôi! Ngài đây là làm chi vậy?” vị trung niên nọ đang nói, cũng liền quỳ xuống, ôm lấy linh mục Lôi, khóe miệng run rẩy, hai hàng nước mắt anh dũng giống như châu ngọc không ngừng lăn dài trên má.
Thật giống như sấm chớp, đã chấn động cả nhà khách. Tất cả mọi người hiện diện đều mắt chữ a miệng chữ o, xuất thần nhìn chằm chằm hai con người anh hùng “Đang ôm chầm lấy nhau”.
“Được rồi, linh mục Lôi, ngài đứng dậy đi!” vị trung niên đó tiếp tục nói: “Tôi bây giờ thì trở lại rồi!”
“Không tránh được nhé!” linh mục Lôi đang nói thì đứng dậy, trở về chỗ ngồi của bản thân.
Tiếng vỗ tay và hoan hô ầm ầm như sấm động.
Người trung niên “Dáng thân sĩ” ấy không ai khác chính là linh mục Bùi, là “Món quà Giáng Sinh tuyệt vời nhất” mà giám mục Tôn đã nói.
Sau khi linh mục Bùi trở lại cương vị linh mục, vì cảm kích ân huệ, và cũng là để báo đáp sự đối xử trọng hậu của linh mục Lôi, vị linh mục ấy đã xin gia nhập Giáo Phận An Quốc để cùng làm việc với linh mục Lôi. Trải qua nhiều lần thư tín với giám mục Tôn, lại có linh mục Lôi ở bên cạnh nói tốt, giám mục Tôn cuối cùng đã chuẩn như lời trình, linh mục Bùi trước lễ Giáng Sinh năm ấy, liền tới Giáo Phận An Quốc báo danh, và trở thành món quà Giáng Sinh tuyệt vời nhất mà linh mục Lôi tặng cho giám mục Tôn.
Đương thời tôi ở chân Phúc Viện An Quốc làm tu sĩ của linh mục Lôi, đối với linh mục Bùi có thể nói là quen nhẵn mặt. Cả tu viện ai cũng biết ngài ấy là bạn hữu và cũng thường nhìn thấy ngài ấy đến tu viện trò chuyện lâu giờ với linh mục Lôi. Ngài ấy ở Giáo Phận An Quốc phục vụ nhiều năm, đảm nhận chức vụ chánh xứ của ba bốn giáo xứ, cuối cùng về với Chúa tại Giáo Xứ Đại Lê Viên. Trong tâm trí của các giáo dân, ai ai cũng đều công nhận ngài ấy là một vị linh mục tính tình ngay thẳng, tài đức ưu việt.
Nhưng, khi ngài ấy và linh mục Lôi còn sống, đoạn chuyện trên hoàn toàn chưa từng nghe nói. Không chỉ hai người đó chưa từng tỏ lộ, mà cũng chưa từng nghe người khác công khai hoặc bí mật bàn tán qua.
Sau khi linh mục Lôi qua đời — linh mục Bùi đã qua đời trước linh mục Lôi bốn năm – một lần khi bàn về sự vĩ đại của linh mục Lôi với một vị linh mục lớn tuổi, tôi từ trên miệng của ngài ấy mới được biết câu chuyện động lòng người này. Thật may mắn biết bao!
HỦY NHÀ SƠ TÁN
Ngày 7 tháng 7 năm 26 Dân Quốc, tiếng đạn bom ở cầu Lư Câu (cầu Marco Polo) ở phía nam Bắc Bình, đã kinh động đời sống an tĩnh trong Tu viện của chúng tôi. Biểu hiện trên khuôn mặt của anh em không phải là kinh hoàng, mà là hưng phấn; mọi người tụm năm tụm ba thuật lại những hồi ký về hai lần kháng chiến đã qua (ở Trường Thành và Tuy Đông), và mong ngóng được góp sức vào những công việc cứu thương sắp tới.
Lúc này, linh mục Lôi vẫn ở Thiên Tân xử lý công việc Liên quan tới “Báo Ích Thế”. Chúng tôi đều suốt rột chờ đợi ngài ấy sớm ngày trở lại, để đem một thân tràn đầy nhiệt huyết chúng tôi đi vào cuộc chiến bảo vệ tổ quốc.
Ngày 17 tháng 8, linh mục Lôi từ Thiên Tân trở lại Bắc Bình, sau đó đạp xe đạp vòng qua Huyện Dị, Phòng Sơn, trở lại Chân Phúc Viện An Quốc. Sự trở về của ngài ấy khiến không khí Chân Phúc Viện sôi sục đến cực độ, đó là điều không cần nói rồi.
Ngày hôm sau, linh mục Lôi triệu tập tất cả các tu sĩ hơn trăm người ở An Quốc tới đại thánh đường giáo hóa. Ngài ấy tròn mắt đảo hai ba lượt, dùng âm thanh sôi nổi và vang dội, ban bố lệnh tổng động viên cách rõ ràng và đơn giản: “Bây giờ kháng chiến bắt đầu rồi, chúng ta phải dừng tất cả các công việc không trực tiếp liên quan đến cứu quốc, một lòng tòng quân cứu thương, chưa đuổi được giặc, nguyện không trở về!”; “Nhưng, anh em tập năm nhất, đang tiếp nhận sự huấn luyện nghiêm khắc của tu hội, hơn nữa tuổi đời còn trẻ, tạm không thể tham gia công việc cứu thương thực tế, cha chuẩn bị đưa anh em tới hậu phương, tại Châu Chí-Thiểm Tây, tiếp tục tiếp nhận sự huấn luyện của tu hội, sau này có cơ hội lại tiếp tục lên tiền phương”.
Sau khi chúng tôi nghe xong lệnh tổng động viên vang vang đầy sức mạnh này, đại bộ phận tu sỹ đã phát nguyện vỗ tay, nhảy nhót cách hưng phấn; nhưng những tập sinh lại chìa môi trĩu mỏ, than thân tuổi trẻ vô phúc vậy.
Linh mục Lôi làm việc, luôn luôn gọn gàng khẳng khái; ngài ấy lập tức tới trường trung học Tây Tồn, cận kề huyện Bác Dã, xin bạn tốt của ngài, ông Trương Âm Ngô, phái bác sỹ của trường tới tu viện, huấn luyện chúng tôi kỹ thuật cáng thương và cấp cứu. Mặt khác, ngài ấy liền đi đến chính quyền tỉnh Hà Bắc, Bảo Định, thảo luận công việc tòng quân cứu thương.
Linh mục Lôi “Đi trước thời đại”, những ý tưởng mới mẻ không ngừng xuất hiện trong tâm trí ngài. khi ngài ấy đến Dòng Têrêsa cử hành thánh lễ, mặc dù chưa có phát ra lệnh tổng động viên, nhưng ngài ấy đã biểu thị tương lai nếu cần thiết, cũng sẽ phái các nữ tu đến tiền tuyến phục vụ công tác cứu trợ thương binh. Các nữ tu Têrêsa nghe những lời này, không khỏi phát ra những tiếng cười sửng sốt, có nữ tu trẻ còn thè lưỡi dọa người.
Điều gì đến cuối cùng ắt phải đến, ý tưởng của linh mục Lôi cuối cùng đã phải trở thành hiện thực. Mùa xuân năm thứ 28 Dân Quốc, linh mục Lôi thực sự đã phái bốn nữ tu tới núi Trung Điều làm việc trong đoàn giám sát bệnh viện. Hiện tại, nữ tu Lucia, Viện trưởng Phân viện Dòng Têrêsa Đào Viên chính là một trong số đó. Ngoài ra, còn có hai vị nữ tu đã hi sinh vì tổ quốc. Đó là chuyện sau này sẽ nói.
Đối với những tư tưởng mới mẻ của linh mục Lôi, Không phải tất cả mọi người đều tán thành. Nhiều bạn bè bên ngoài và số ít tu sĩ bổn hội cũng thận trọng biểu thị sự bất đồng đối với quyết định và sáng kiến chưa từng có trong lịch sử này của linh mục Lôi. Có vị linh mục đồng đạo còn nói với linh mục Lôi: “Ngài điên rồi sao? Ngài muốn hủy hai hội dòng ngài mới lập sao?”
“Vâng!” linh mục Lôi không chút do dự nói: “Con là muốn dốc hết của cải trong nhà để đi trừ nạn vậy!”
TÔI LÀ NGƯỜI TRUNG QUỐC!
Không lâu sau khi màn dạo đầu của cuộc kháng chiến toàn diện nổ ra, quân ta tại Phong Đài, ở phía nam Bắc Bình, đã đánh một trận thắng lợi cực vẻ vang. Tin chiến thắng truyền đến An Quốc, ngày 29 tháng 7, Huyện trưởng Trương Ngưỡng Văn tổ chức “Đại hội ăn mừng chiến thắng”. Trước miếu Dược Vương có tiếng tại An Quốc, người đông nghìn nghịt, tiếng pháo nổ rền vang, chiêng trống rung trời, so với ngày tết còn náo nhiệt hơn gấp vạn lần. Hưng phấn, sôi nổi hiện rõ trên khuôn mặt của tất cả mọi người.
Linh mục Lôi và chúng tu sĩ cũng vui vẻ tham gia đại hội ăn mừng chiến thắng, và còn được Huyện trưởng Trương mời lên đài thuyết giảng.
Đại hội bắt đầu, huyện trưởng dẫn lời khai hội, sau khi nói rõ ý nghĩa của buổi lễ chúc mừng, người phát ngôn dùng ngôn từ rõ ràng tuyên đọc điện tín “Chiến thắng Phong Đài”, mọi người chăm chú lắng nghe, đến khi hai chữ “Đã xong” bật ra khỏi miệng anh ta, tiếng vỗ tay, tiếng gào thét, ầm ầm như sấm dậy.
Huyện trưởng Trương làm một thế tay, mọi người liền im ắng trở lại, ông ấy mời linh mục Lôi diễn thuyết. Khi linh mục Lôi đi đến phía trước giảng đài, Huyện trưởng Trương đã làm một giới thiệu vô cùng đơn giản: “Bà con xem vị này là người Trung Quốc hay là người ngoại quốc vậy?”
Cũng không biết là tin tức linh mục Lôi nhập tịch Trung Quốc đã lan truyền rộng rãi, hay là Huyện trưởng Trương trước đó đã có sự sắp đặt đặc biệt, dưới đài hàng ngàn người cùng đồng thanh hô lớn: “Người Trung Quốc!”
Linh mục Lôi vui mừng vô cùng, ngài ấy bắt đầu diễn thuyết: “Vâng! Các bạn nói phải lắm, tôi là người Trung Quốc, tôi từ lúc mười một tuổi thì trong tim đã là một người Trung Quốc rồi. Đến năm thứ 16 Dân Quốc, tôi chính thức cập bến Trung Quốc chúng ta, và đã nhập tịch Thiên Tân. Vâng! Tôi là người Trung Quốc, tôi yêu Trung Quốc chúng ta. Tôi muốn cứu Trung Quốc chúng ta. Vâng! cứu quốc! bây giờ chỉ có một con đường, chính là kháng chiến. Tôi chủ trương kháng chiến, không chỉ bắt đầu từ hôm nay, tôi đã chủ trương kháng chiến từ biến sự “918”. Báo Ích Thế là tờ báo tôi lập, mọi người đều biết xã luận của Báo Ích Thế, luôn luôn chủ trương kháng chiến…… mấy ngày qua, tôi đã lệnh cho các anh em tu sĩ của tôi, đi tới nơi tiền tuyến cấp cứu các tướng sĩ thương vong, mọi người có nguyện ý đi cùng tôi hay không?”
“Nguyện ý đi!” dưới đài lại là một trận la hét long trời.
“Thật sự muốn sao?” linh mục Lôi lại hỏi.
“Thật sự! Thật sự!” đám học sinh tiểu học đứng phía trước đài ngây ngô hét. Người lớn phía sau đáp lại bằng một trận cười vang.
“Hãy đi tới tiền tuyến,” linh mục Lôi tiếp tục vận động, “Không phải tất cả mọi người đều có thể đi, nhưng có một điểm tất cả mọi người buộc phải làm, chính là phải luôn luôn làm ngưởi Trung Quốc; Huyện An Quốc chúng ta có thể thất thủ, bất luận ai đến thống trị, mọi người đừng quên bản thân là người Trung Quốc…….”
Diễn thuyết xong, tiếng vỗ tay ở dưới đài đã kéo dài hơn ba mươi phút. Trong mắt Huyện trưởng Trương đã chứa đầy những giọt nước mắt, ông ấy đi qua bắt tay linh mục Lôi, liền lên tiếng nói: “Tốt quá rồi! linh mục Lôi, cảm ơn ngài!”
Đại hội mừng chiến thắng đã kết thúc trong hưng phấn, khắp nơi vẫn có thể nghe thấy trẻ con hét lớn: “Chúng ta là người Trung Quốc, chúng ta yêu Trung Quốc, chúng ta phải ra tiền tuyến thôi!”
NGÀI MUỐN TÔI CHẾT SAO?
Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch đối với lần kháng chiến này, đã nhiều lần biểu thị phải kháng chiến tới thắng lợi cuối cùng, tới người cuối cùng cũng không khuất phục. Linh mục Lôi vui mừng vô cùng, quyết tâm “Hủy nhà cứu quốc” của ngài ấy lại có thêm một sự cổ vũ cực đại. Ngài ấy một mặt tiến hành việc thành lập đội cứu thương, một mặt sắp xếp công việc của hai hội dòng Gioan Tẩy Giả và Têrêsa; và đây là một công việc vô cùng phức tạp.
Mặc dù tập sinh của bổn hội đã được sắp xếp chuyển tới Thiểm Tây, nhưng Tổng Viện An Quốc không thể không lưu lại một số tu sĩ; vậy ai sẽ là người ở lại? Đặc biệt hơn nữa, các nữ tu Têrêsa tạm thời vẫn chưa thể rời khỏi An Quốc, làm sao để các nữ tu rút đi an toàn? Rồi Sau khi linh mục Lôi lên tiền tuyến, cần phải trao phó hai hội dòng cho một linh mục khác chăm nom, vậy linh mục đó là ai? Người được chọn trong mắt của ngài ấy chính là chuyên gia chống cộng, linh mục Lôi Trấn Viễn. Khi ấy linh mục Trấn Viễn ở An Quốc cũng là một nhân vật tiếng tăm lẫy lừng, chỉ sau mỗi Lôi Minh Viễn. Đương thời, mọi người đều không gọi tên của họ, mà chỉ gọi là “Đại Lôi” và “Nhị Lôi”. Chỉ cần nghe như vậy, cả một phương không ai là không biết họ đang nói về ai.
Ngày 2 tháng 8, Đại Lôi đề xuất yêu cầu ở trên cho Nhị Lôi. Nhị Lôi trên nguyên tắc đã đáp ứng rồi, nhưng vẫn yêu cầu Đại Lôi phải đáp ứng một điều kiện, là buộc phải viết “Di chúc”.
“Di chúc gì! Cha muốn tôi chết sao?” Đại Lôi không vui nói: “Yên tâm đi! Tôi sẽ trở lại mà!”.
Nhị Lôi không quan tâm lời nói của ngài ấy, khóa trái cửa phòng lại, và nói: “Nếu không viết di chúc, tôi không thể tiếp nhận trách nhiệm chỉ đạo hai hội dòng, ngài cũng trở về phòng nghỉ ngơi đi!”
Linh mục Đại Lôi bị buộc phải viết hai bản di chúc, một cho Dòng Gioan Tẩy Giả, một cho Dòng Têrêsa, rồi đem nó khóa trong một cái rương nhỏ, giao cho Nhị Lôi và nói: “Không được phép nói cho bất cứ ai; nếu tôi trở lại, phải giao trả cho tôi”.
Cuối cùng Nhị Lôi có viễn kiến, Đại Lôi không có trở lại An Quốc nữa, ba năm sau khi linh mục Lôi qua đời, Nhị Lôi mới đem “Di chúc” này công bố.
CỨU QUỐC NHƯ CỨU HỎA
Sau khi linh mục Lôi hướng về những tu sĩ chúng tôi ban bố “Lệnh động viên”, ngài ấy lấy bản thân làm chuẩn, đầu tiên là dừng phần lớn công việc thường nhật, cả ngày chạy đông chạy tây, tích cực thu xếp công việc cứu hộ thương binh.
Có người trách cứ ngài ấy bỏ quên công việc quan trọng là huấn luyện các tu sĩ nam nữ của ngài ấy. Việc tới tiền tuyến cứu giúp thương binh là ngu xuẩn, là lanh chanh, là lố trớn làm màu…..đặc biệt là kế hoạch kêu gọi các nữ tu Têrêsa tới tiền tuyến, việc này đơn giản là điên khùng.
Trong một lần giảng lễ, linh mục Lôi dùng một dụ ngôn để làm một đáp án “Không chính thức” đối với những chỉ trích nêu trên. Ngài ấy nói một cách hài hước: “Trong nhà có hỏa hoạn, anh trai lớn dừng việc ra đồng, mẹ cũng ngưng đến chợ bán rau……. thiên kim tiểu thư rời khỏi khuê phòng, xách một thùng nước dội vào đám lửa, không phải là lanh chanh, không phải là lố trớn làm màu, càng không phải là điên khùng, nhưng là nghĩa vụ, là đạo đức…” Vì thế, công việc cứu thương rất nhanh đã được triển khai ở Chân Phúc Viện.
Ngày 29 tháng 7 năm 26 Dân Quốc, buổi tối cùng ngày sau đại hội mừng chiến thắng, có tu sĩ đề nghị, trước khi ra mặt trận, trước tiên hãy xuất bản một nhật báo khổ nhỏ, giải cứu cư dân huyện An Quốc, vì Bình Tân thất thủ mà phải chịu cảnh “Thiếu lương thực tinh thần”, và cũng là cách dùng ngôn luận để ủng hộ và cổ vũ ý chí kháng chiến của dân chúng. Linh mục Lôi nghe xong liền gật đầu đồng ý, lập tức vỗ tay tán thành; chúng tôi cũng theo đó nhất trí thực hiện. Thế là đề xuất ra ba vị tu sĩ học triết thần bắt đầu công tác chuẩn bị.
Đương thời, Dòng Gioan Tẩy Giả ở Tổng Viện An Quốc liền trở thành một xưởng in quy mô tương đối lớn, chỉ cần có người biên soạn, việc xuất bản một nhật báo khổ nhỏ là điều dễ như trở bàn tay. Chiếc radio là nguồn chủ yếu cung cấp các tin tức quan trọng. Nguồn tin tức thứ đến chính là từ những tu sĩ ngày đêm đi khắp nơi trong huyện phỏng vấn các cơ quan chính phủ. Vậy nên, những tin tức về tình hình tại địa phương cũng có thể tìm thấy kha khá. Ngoài ra, những tin khác đều do mọi người nhiệt tình lần lượt cung cấp. Chỉ cần một kế hoạch qua loa như vậy, cũng như dựa vào chỉ thị “Cứu quốc như cứu hỏa” của linh mục Lôi, mọi người đều hăm hở chia nhau thực hiện. Sau năm ngày, vào ngày 4 tháng 8 thì số báo đầu tiên đã ra đời. tên của nó gọi là “Nhật báo bảo vệ hậu phương”, đầu báo do Huyện trưởng Trương Ngưỡng Văn đích thân hạ bút, bút tích của ngài ấy rất khỏe khoắn, làm nổi bật rõ tinh thần kháng chiến.
Tờ báo là tờ A4. Ngày đầu tiên đã in năm trăm bản, đem đi biếu khắp nơi. Ngày thứ hai và ngày thứ ba số lượng bản in lên đến một ngàn bản, vẫn là đem đi kính biếu. Ngày thứ tư bắt đầu đem bán, mỗi bản bán giá một đồng xu lớn— đương thời mỗi hào đổi được 20 đồng xu lớn hoặc 40 đồng xu nhỏ. Chưa đến một tuần, số lượng phát hành đã lên đến năm ngàn bản; hai tuần sau, liền đột phá đến một vạn bản. Đỉnh cao nhất đạt đến một vạn bốn ngàn bản.
MỞ RA TẤT CẢ
Tờ nhật báo cỡ nhỏ được mọi người đón nhận, một mặt bởi vì nó là món ăn tinh thần duy nhất của khu vực Huyện An Quốc ngày ấy, mặt khác là do mục xã luận “Mỗi ngày một câu chuyện” của tờ báo đã thực sự nắm trọn lòng người. Sức ảnh hưởng của bài xã luận nho nhỏ này rất lớn. Hành động của dân chúng đối với việc “Gây quỹ cứu quốc” do báo này phát khởi, phần nào có thể chứng minh sức ảnh hưởng này.
Chuyên mục “Mỗi ngày một câu chuyện” từ số đầu tiên cho đến số cuối tháng tám, phần lớn đều do linh mục Lôi lên ý tưởng, và do tôi chấp bút. Sau ngày 24 tháng 8 cùng năm, kể từ khi linh Mục lôi dẫn dắt đội cứu thương lên hỏa tuyến, chuyên mục này đều do tôi, kẻ chấp bút cho những tinh thần và tư tưởng của linh mục lôi tuyển chọn và soạn thảo.
Tinh thần “Kháng chiến” của linh mục Lôi, thông qua chuyên mục xã luận “Mỗi ngày một câu chuyện”, đã tiêm cho độc giả những liều hưng phấn đầy sức mạnh. Điều này có thể chứng minh thông qua sự hăng hái đến từ những người dân tham gia vào đội cứu thương mà ngài ấy chiêu mộ. Đây cũng là điều khó tránh khỏi, linh mục Lôi luôn luôn trò chuyện mạnh mẽ và hùng hồn, trong thời khắc sinh tử của quốc gia, lời của ngài ấy tựa như bom đạn nổ tóe ra những tia lửa sáng ngời và mãnh liệt. Ví dụ như những câu ngài ấy nói: “Dùng con tim phải chết, cầu con đường tái sinh”; “Máu có thể chảy, đầu có thể rời, chuộc lại tổ quốc, tuyệt không uổng phí”; “Trước sau luôn phải làm người Trung Quốc”; “Hi sinh tất cả, cứu lấy Trung Quốc”;… Đều là những đoạn văn khiến người đọc rơi nước mắt.
Ngày kia, đề mục của bài xã luận là “Đâu là người ngày hôm nay cần”. Đáp án rất dứt khoát: “Người bỏ ra tất cả”.
Ba năm sau, trước lúc linh mục Lôi qua đời, trong lần đầu tiên gặp linh mục Phương Hào ở núi Ca Lạc, Trùng Khánh – linh mục Phương Hào cũng là một độc giả của “Nhật báo hậu phương”- ngài ấy với thái độ khảo chứng hỏi tôi: “Bỏ ra tất cả” nghĩa là thế nào? “Bỏ ra tất cả” là một từ thổ ngữ phương Bắc rất có trọng lượng, đương thời vẫn chưa phổ cập toàn quốc, hiện nay đã được thêm vào Từ Điển Quốc Ngữ. Ý nghĩa của nó là: “Hy sinh, từ bỏ, không màng thành bại, dũng cảm tiến về phía trước”.
Linh mục Lôi là người có ý chí kiên cường và tinh thần triệt để, ngài ấy rất thích dùng những từ ngữ “Cực đoan”. “Bỏ ra tất cả” cũng là động từ mà ngài ấy rất thích dùng. Ví dụ, ngài ấy thường nói với chúng tôi luôn: Người không “bỏ ra tất cả” thì đừng mơ thành Thánh! Quốc nạn ập xuống, lời này ở trên môi hay dưới ngòi bút của ngài ấy lại càng âm vang mãnh liệt xiết bao.
Chuyên mục “Mỗi ngày một câu chuyện” mà linh mục Lôi nhờ tôi viết ngày ấy, một hơi liền nói mười mấy lần “Bỏ ra tất cả!”. Ngài ấy nói: “Hòa bình giữa Trung Nhật đã không thể vãn hồi, chúng ta chỉ còn một hơi thở, cũng không thể không “Bỏ ra tất cả”, quyết một phen sống mái với Nhật Bản……Hỡi tất cả đồng bào, chúng ta phải có quyết tâm “Bỏ ra tất cả”, bởi vì chúng ta đã tới thời khắc sinh tử…… hỡi tất cả đồng bào, đúng dậy! “Bỏ ra tất cả” để cứu quốc. Bạn “Bỏ ra”, tôi cũng “Đã bỏ ra rồi”, mọi người đều “Bỏ ra”. Tài sản không cần đến, hãy vui vẻ “Bỏ ra”. Khi cần, ngay cả mạng sống cũng “bỏ ra” nốt. Thắng lợi cuối cùng nhất định là của chúng ta”.
KHÔNG CẦN LƯƠNG, CHỈ CẦN CÔNG VIỆC
Chúng tôi một mặt làm báo, lấy văn tự kháng chiến; một mặt khác cũng tích cực tiến hành tham gia vào các công việc cứu quốc thực tế.
Trung tuần tháng 8, Sư Đoàn 12, Quân Đoàn 3 tiến về phía bắc, tiến vào chiếm giữ một dải An Quốc và Huyện Định. Được sự giới thiệu của đoàn trưởng trung đoàn 68 Dương Dục Côn, linh mục Lôi đã gặp gỡ sư đoàn trưởng Đường Hoài Nguyên tại Huyện Định, và nói rõ ý đồ gặp gỡ. Khi ấy, sư trưởng Đường và ông Hà, Cục trưởng cục Quân Y đang đau đầu bởi việc trốn chạy của nhiều nhân viên cứu thương trong trại. Vừa nghe linh mục Lôi trò chuyện, liền hưng phấn trở lại nhưng cũng chẳng dám tin vào lỗ tai của bản thân.
— Thật không? Sư trưởng có chút hoài nghi.
— Ai đang lừa ngài thế? Linh mục Lôi hỏi vặn lại.
……
— Ngài muốn bao nhiêu người vậy?
— Có bao nhiêu, muốn bấy nhiêu.
— Muốn bao nhiêu, cho bấy nhiêu!
Sư trưởng và Cục trưởng Quân Y bán tín bán nghi trả lời: Muốn ba trăm người. Linh mục Lôi đáp ứng trong ba ngày, sẽ mang tất cả người đến báo danh.
Linh mục Lôi lập tức cáo từ, và trở về An Quốc chiêu mộ nhân sĩ cứu thương, Cục trưởng Hà mời ngài ấy ngồi xuống một chút, để bàn luận vấn đề đãi ngộ. Ông ấy cầm lấy tờ giấy “Biên chế đội y tế” và nói với linh mục Lôi về con số chi phí cũng như lương thưởng của sĩ quan các cấp. Linh mục Lôi nói, tôi không cần xem bản biên chế phức tạp này, chúng tôi không cần cấp bậc, không cần lương thưởng, không cần…… chỉ cần công việc.
— Các người không thể không ăn cơm! Cục trưởng Hà kinh ngạc nói.
— Cục trưởng cung cấp cho chúng tôi cơm ăn áo mặc là được rồi.
— Cũng phải ăn điểm tâm chứ!
— Tùy ngài cấp cho.
Hai người bàn luận, cuộc bàn luận thật không bình thường. Được một lúc lâu sau đó, cuối cùng đã quyết định mỗi người mỗi tháng sẽ phát cho bảy đồng rưỡi (Đây là mức đãi ngộ dành cho các binh nhì, mức đãi ngộ thấp nhất trong quân đội đương thời).
Sau này có người tiết lộ: ngày ấy, Sư trưởng và Cục trưởng cục Quân Y đã nhìn nhau hoài nghi không thôi, trên thế giới lại có người như thế sao: quả thực, Lôi Minh Viễn không phải kẻ có dã tâm, thì cũng chính là kẻ ngốc vậy.
Sáu tháng sau, kẻ đại ngốc trong mắt sư trưởng Đường đã trở nên “Cha của Sư Đoàn 12” trong lời nói của ông ta vậy.
MỘT KẺ ĂN XIN CAO CẤP
Ngày 20 tháng 8 năm 26 Dân Quốc, linh mục Lôi vì thành lập đội cứu thương đã gia nhập hàng ngũ kháng chiến, và đã hội kiến sư trưởng Đường Hoài Nguyên, sư trưởng Sư Đoàn 12, Quân Đoàn 3 Trung Ương tại Huyện Định, Hà Bắc. Kết quả thương thảo, sư trưởng đã đáp ứng thành lập đội cứu thương khoảng ba trăm người. Linh mục Lôi cũng đáp ứng sau ba ngày, sẽ đem ba trăm người đến báo danh, và liền cáo từ trở về huyện An Quốc.
Sư trưởng Đường và cục trưởng Hà, cục trưởng Cục Quân Y đều là người Vân Nam, là người xa lạ với linh mục Lôi, và cũng là những người mang sẵn thành kiến đối với Công Giáo. Vì thế, đối với lời hứa vừa rồi của linh mục Lôi cũng chẳng có gửi gắm quá nhiều hy vọng.
Sau khi linh mục Lôi đi rồi, cục trưởng Hà nói với sư trưởng Đường: “Nếu anh ta gọi không đủ người đến, chúng ta cũng chẳng mất mát gì, tôi một đồng cũng chưa đưa cho anh ta”. Nói đoạn, hai người cùng phá lên cười haha.
Sau khi linh mục Lôi từ trần, sư trưởng Đường đã viết một lời truy điệu “Văn tình dạt dào”. Trong đó có một đoạn hồi ký liên quan đến “Lần đầu tiên gặp linh mục Lôi”, đại ý như sau:
“Tôi lần đầu tiên gặp gỡ Lôi Minh Viễn, ấn tượng dù sâu nhưng chẳng kinh người. Nhìn thấy anh ta đầu trọc, chân trần, áo thô, dép vải, dáng nhỏ thó lại đen gầy, giống như một người ăn xin cao cấp, chỉ là anh ta chẳng có ngửa tay xin tôi tiền mà thôi, tôi trong lòng cảm thấy rất buồn cười. Khi ấy, tôi luôn mang nặng thành kiến: “Người Công Giáo là những người không yêu nước”, nếu không có thư giới thiệu của đoàn trưởng Dương, tôi nhất định không tiếp kiến anh ta. Tôi đã mang trọn tâm tình ấy, nghe anh ta nói thao thao bất tuyệt kế hoạch “Cứu giúp thương binh”. Tôi bán tín bán nghi, chẳng quan tâm nói chuyện nhiều với anh ta, liền gọi cục trưởng Hà, cục trưởng Cục Quân Y đến bàn bạc ứng phó. Vạn phần chẳng ngờ rằng……”.
SỨC MẠNH CỦA CÔNG GIÁO
Sau khi linh mục Lôi từ Huyện Định trở về Chân Phúc Viện An Quốc, ngay tối hôm đó liền chỉ định các tu sĩ đi tới các giáo xứ trong giáo phận, chiêu mộ giáo dân tình nguyện tòng quân. Ngày thứ hai, tu sĩ Nhược Bá đi Thúc Lộc; tu sĩ Bảo Lộc và hai tu sĩ khác qua Cao Dương; linh mục Lôi đích thân đem linh mục Nhị Lôi (Chấn Viễn) và tu sĩ Bá Đạt tới các giáo xứ lân cận khu vực An Quốc và Huyện Lê chiêu mộ nhân mã. Buổi tối hôm ấy, linh mục Lôi đã dắt về hơn năm mươi người lận.
Ngày 22 tháng 8, mặc dù mưa to như trút nước, mọi người thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội lần lượt tập kết tới Chân Phúc Viện, chỉ một giáo xứ ở Cao Dương đã có đến hơn hai trăm giáo dân đến tòng quân. Linh mục Lôi cực kỳ tán thưởng tu sĩ Bảo Lộc, liền chỉ định anh ấy làm phó đội trưởng đội cứu hộ.
Huyện Thúc Lộc cách khá xa An Quốc, lại vì cả ngày mưa lớn, làm mực nước sông Sa dâng cao, khiến giao thông gián đoạn, nên giáo dân ở đó chưa thể đến. Linh mục Lôi không muốn thất tín với sư trưởng Đường, quyết định tới hạn kỳ sẽ xuất phát lên tiền tuyến. Ngài ấy liền lệnh cho phó đội trưởng Bảo Lộc tạo danh sách điểm danh, thống kê nhân số. Sau khi thống kê, toàn quân cả thảy có 280 người, nếu cộng thêm hơn ba mươi tu sĩ bổn hội như dự tính sẽ tham gia kháng chiến, thì quân số đã vượt quá định mức. Thế là phải xét duyệt lại lần nữa, đề xuất mấy vị già yếu bệnh tật, xin họ quay trở về nhà. Ba trăm tráng sĩ còn lại phân thành ba phân đội, chuẩn bị xuất phát.
Buổi sớm ngày 24 tháng 8, linh mục Lôi dẫn ba trăm người thường phục lộn xộn, xuất phát từ Chân Phúc Viện, hùng dũng tiến vào tòa giám mục, để giám mục Vương Lự Viễn thánh hóa “Lá cờ đội cứu thương”, cử hành lễ thu cờ đơn giản, rồi sau đó chỉnh quân tiến ra quảng trường trước miếu Dược Vương ở cửa nam, tiếp nhận lễ tiễn biệt do huyện trưởng Trương sắp xếp.
Trong lễ tiễn biệt cả vạn người huyên náo, tiếng pháo tưng bừng, linh mục Lôi không có phát biểu, chỉ chốc chốc lại chấp tay hành lễ cảm ơn. Trái lại, huyện trưởng Trương Ngưỡng Văn lại phát biểu diễn văn tiễn biệt lôi cuốn động lòng người. Mấy câu trong đó chẳng khác nào là thay Công Giáo làm nên những lời tuyên truyền rất có sức mạnh. Ông ấy nói: “Hôm nay tôi mới nhận thức được sức mạnh của Công Giáo, và cũng gia tăng sâu đậm sự quý trọng của tôi đối với linh mục Lôi. Tôi là chủ của một huyện, dùng mười vị cảnh sát vũ trang, trong năm ngày cũng không dễ lôi kéo được năm dân phu, để hiệp trợ quân đội vận chuyển lương thảo, vậy mà linh mục Lôi, hô vang một tiếng, chư vị giống như mây gió vậy, lập tức tiến đến tham gia kháng chiến. Đây là sức mạnh của đức tin vậy!”
Đội cứu thương trong tiếng hoan hô và tiếng pháo rền vang đang bước đi trên chính lộ.
KHÔNG CÓ CÁCH NÀO BÁO ĐÁP ĐẤT NƯỚC SAO?
Ngày thứ ba sau khi linh mục Lôi dẫn dắt đội cứu thương xuất phát, thì tu sĩ Nhược Bá cũng dẫn gần hai trăm thanh niên đến Chân Phúc Viện. Họ đều là giáo dân huyện Thúc Lộc, hưởng ứng lời mời gọi tham gia đội cứu thương. Vì cả ngày mưa lớn, mực nước sông Sa dâng cao, nhất thời không thể qua sông mà đến trễ ba ngày. Phó viện trưởng Chân Phúc Viện một mặt chiêu đãi họ, một mặt nói với họ: “Mọi người chậm một bước rồi, linh mục Lôi đã dẫn đội cứu binh đi ra tiền tuyến, rốt cuộc đang ở đâu, chúng tôi cũng không biết. Hơn nữa, số lượng đội cứu thương cũng đã vượt hạn định, chư vị nghỉ ngơi hai ngày, thì có thể trở về nhà rồi!”
“Về nhà? Sao lại vậy chứ!” bọn họ la hét không ngừng. Trong đó, có một vị giống như là người dẫn đội, phẫn nộ nói: “Chúng tôi lặn lội đường xa, bất chấp hiểm nguy, vượt qua hai đợt nước lớn lan tràn, hoàn toàn là để báo đền đất nước, hưởng ứng lời hiệu triệu của linh mục Lôi, tới tiền phương tham gia công việc cứu thương. Nhưng sao? Chúng tôi mới vừa đến, liền kêu chúng tôi về nhà vậy, không được!” nói đoạn, liền ngồi xuống dưới đất, biểu thị sự kháng nghị. Những người còn lại cũng đồng tâm bắt đầu làm theo, lần lượt ngồi xuống, hét lớn: “Không được! Không được!”
Vị dẫn đội lại nói: “Chiến dịch Trường Thành lần trước (năm 22 Dân Quốc), linh mục Lôi từ tiền phương phái người đến làng chúng tôi chiêu mộ người, chúng tôi đã tập hợp chuẩn bị xuất phát, đột nhiên “Hiệp định Đường Cô” được ký kết, khiến chúng tôi không thể thỏa chí báo quốc, bây giờ lại ngăn cản con đường chúng tôi báo đền đất nước sao?”
Phó viện trưởng và các tu sĩ khác nghe lời trần tình khẳng khái này của anh ta, thì cảm động không thôi. Nhưng họ lại lực bất tòng tâm, vô phương thành toàn chí khí của bọn họ. Điều này khiến cho phó viện trưởng rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Sau đó, các tu sĩ cũng nhiều lần khuyên giải, và hứa lần sau có cơ hội, nhất định sẽ ưu tiên gọi họ trước, rồi phát cho mỗi người một đồng bạc trắng, để bọn họ trở về nhà.
Mấy ngày sau, “Nhật Báo Hậu Phương” dự định thay đầu báo mới, tôi đến huyện phủ xin huyện trưởng Trương đề tự, nhân tiện báo cáo cho ngài ấy việc “Chí nguyện báo đền đất nước chưa thành”của giáo dân huyện Thúc Lộc. Ngài ấy cảm động cơ hồ rơi nước mắt. Ngài ấy nói: “Tấm lòng ái quốc của tín đồ Công Giáo các người nhiệt thành như vậy, hành động cứu quốc nhanh nhẹn tích cực như thế, rốt cuộc là sức mạnh của đức tin chăng? Hay là do sự tác động của linh mục Lôi vậy?” Ngài ấy không đợi tôi trả lời, bản thân cướp lời nói: “Tôi nghĩ là sự hội tụ của cả hai nguồn sức mạnh vậy!”.
BÁO KHÁNG NHẬT
Từ sau số đầu tiên ngày 4 tháng 8 năm 26 Dân Quốc, Nhật Báo Hậu Phương rất được quần chúng đón nhận. Một mặt, dĩ nhiên là vì nó là lương thực tinh thần duy nhất của dân chúng khu vực huyện An Quốc ngày ấy; mặt khác là bởi ngôn luận kháng chiến của nó quả thực cũng khơi dậy không ít tinh thần yêu nước của dân ta. Vì thế, tờ báo này từ 500 bản ở số đầu tiên, đã gia tăng lên đến 14.000 bản chỉ sau đó hai tuần. Người tham gia đội cứu thương lần này hăng hái như vậy, danh tiếng của linh mục Lôi dĩ nhiên là nhân tố cực đại, nhưng sự tuyên truyền của tờ báo này cũng thật sự tạo ra ảnh hưởng không nhỏ.
Chúng tôi ở trên tờ nhật báo này đã phát động hai lần “Quyên góp cứu quốc”: một lần là để ủy lạo binh sĩ đồn trú Trung Đoàn 68, Quân Đoàn Trung Ương; một lần là quyên góp quần áo ấm cho đội cứu thương. Kết quả xuất sắc vượt quá cả sự kỳ vọng của chúng tôi. Sự nhiệt thành ái quốc của dân chúng thật sự khiến người khác cảm động. Họ chen lấn đem đồ đến Chân Phúc Viện. Nông dân trong tay không có nhiều tiền, bọn họ liền quyên góp thóc, rau xanh, dưa hấu. Binh Sĩ Trung Đoàn 68 đều ăn no nê dưa hấu ngọt mát.
Buổi sáng mỗi ngày, trời vẫn còn chưa sáng, ngoài cửa Chân Phúc Viện đã tụ đầy những người bán báo. Trong số đó, có không ít người cả đêm vượt mấy chục km để đến đợi. Báo giấy thường khoảng 5h sáng mới in xong. Khi cửa lớn của Chân Phúc Viện vừa mở, bọn họ chen lấn nhau mà vào, một cảnh tượng thật hỗn loạn, người này gọi người kia hét: “Tôi muốn 1000 phần! … tôi đã đặt 2000 bản, hôm nay có thể tăng thêm 500 không?… tôi muốn 300! …từ ngay mai trở đi, tôi đặt 3000 phần! …”
Người bán báo cũng rất biết cách làm vừa lòng tâm lý quần chúng, khi bọn họ rao báo, bọn họ không rao “Nhật báo hậu phương”, mà hét lớn: “Báo Kháng Nhật đi!”.
Có một câu chuyện vui vẻ mà cũng không thiếu phần cảm động, có thể phản ánh tâm lý dân chúng ngày ấy cũng như tầm nhìn của tờ báo này. Tết trung thu năm đó, vì nhân công phần lớn trở về nhà ăn tết, nên tờ báo tạm ngừng một hôm. Vừa khéo ngày đó máy bay địch đã hai lần đến do thám động tĩnh của quân ta, và nhiều lần bay vòng vòng trên bầu trời huyện An Quốc. Chập tối, có hai người thanh niên từ nông thôn đến, một người tìm tới Chân Phúc Viện liền hỏi phòng trực: Chân Phúc Viện có bị tổn hại nặng nề không? Bọn họ nói: “Bên ngoài đều nói, máy bay địch hôm nay không có oanh tạc những công trình khác, chỉ ném bom căn cứ tinh thần kháng Nhật- tòa báo hậu phương mà thôi!” Tu sĩ phòng trực vừa cười vừa dắt anh ta tham quan phòng in ấn. Họ cùng nhau cười lớn: hóa ra thông tin bên ngoài kia là tin vịt!
RA ĐI HAY Ở LẠI?
Cuối tháng 8 năm 26 Dân Quốc, linh mục Lôi dẫn hơn ba trăm tu sĩ và giáo dân, theo Sư Đoàn 12, Quân Đoàn 3 ra tiền tuyến. Đương thời quân Nhật đã xâm chiếm Bình Tân và đang rốt ráo tiến hành nam tiến từ Bắc Bình dọc theo tuyến Bình Hán, trước tình hình đó, quân ta cũng nỗ lực chặn đánh, và đang cầm chân địch từ khu vực Bảo Định đến Bắc Dị.
Đối diện với tình hình ấy, có người đã cảm thán rằng: đội cứu thương lần đầu tới tiền tuyến, nhiệt huyết cứu quốc ngập trời đã bị dội một gáo nước lạnh! Đã nhìn không ra sự tiến triển của việc quân, lại còn chẳng có cơ hội làm việc, chỉ ngày ngày theo quân từng bước rút lui. Sau này, linh mục Lôi nói vui: Chúng tôi lần đầu đến tiền tuyến, dường như chỉ để “rút lui” mà thôi.
Không tới hai mươi ngày, quân ta từ Huyện Dị đã rút về tới Bảo Định (thủ phủ tỉnh Hà Bắc). Tin tức đầu tiên linh mục Lôi nghe được là “Bảo Định tử thủ”. Khi đến tỉnh lị này, thì thấy nó giống như một thành phố chết: cư dân quá nửa đã chạy trốn, mười nhà thì trống đến chín, trên đường rải rác không ít những vật cồng kềnh bị người bỏ lại. Sư Đoàn 12 không đóng lại trong thành mà tạm thời đóng trong một thôn trang cách Bảo Định 4km về phía nam.
Khoảng 1h sáng ngày 22 tháng 9, khi các tu sĩ ở Chân Phúc Viện Huyện An Quốc còn đang say ngủ, bỗng nhiên có người gõ cửa rất vội vã. Khi ấy, tôi đang ở “Tòa Nhật Báo Hậu Phương” gần cửa lớn sửa soạn báo giấy hôm đó, lập tức chạy đến mở cửa, linh mục Lôi xuất hiện trong sự kinh ngạc xen lẫn niềm vui của tôi. Ngài ấy không đợi tôi hỏi thăm, liền nói: vì đội cứu thương đóng trại không xa nơi này, nên đặc biệt chọn đêm nhàn rỗi vội đến để lần nữa sắp xếp công việc của hai hội dòng, và phân phó tôi viết một bài xã luận “Đừng nên chạy loạn” đăng trên mục “Mỗi ngày một câu chuyện”. Ngài ấy nói: “Cha trên đường nhìn thấy người ta “Chạy loạn”, điều này là vô ích đối với bản thân, và gây tổn thất nghiệm trọng đối với đất nước. Chỉ cần “Quốc hồn” không chết, ở trong vùng địch chiếm đóng cũng có thể làm “Người Trung Quốc”. Con phải viết một bài đoản văn theo ý đó”.
Linh mục Lôi phân phó xong, liền lên giường nghỉ ngơi. Sau cơm sáng, ngài ấy lại bắt đầu công việc của “Một ngày bận rộn”: Bàn bạc công việc giáo phận với giám mục Vương, triệu tập hội họp toàn thể bổn hội, và còn chọn thời gian rảnh rỗi tiếp kiến huyện trưởng Trương Ngưỡng Văn, người cũng đã mất đi “Nhuệ khí” và “Hùng tâm” của một tháng trước, và nay cũng đang chuẩn bị “Chạy nạn”.
Ngày hôm say, linh mục Lôi lại đến dòng Têrêxa và triệu tập buổi họp toàn thể hội dòng, cho phép các nữ tu khi có cơ hội sẽ để họ tham gia công việc của đội cứu thương, và quyết định: ngày 24 cùng tháng sẽ cử hành thánh lễ tại nhà thờ Lạc Thành, ngôi nhà thờ mới được xây dựng theo phong cách truyền thống của Trung Quốc. Linh mục Lôi vì để xây dựng ngôi thánh đường này, đã đem phần lớn cổ phần của Báo Ích Thế chuyển nhượng cho Lý Độ Tam, và tựa hồ cũng đã mất đi vị trí tổng giám đốc của tờ báo này.
Tám giờ chiều ngày 23 cùng tháng, linh mục Lôi lại triệu tập chúng tôi lên kế hoạch cho những ngày sắp tới. Khi ngài ấy đang hưng phấn tuyên bố sẽ phái thêm tu sĩ tới tiền tuyến làm việc, thì thình lình hai tu sĩ Phi Lữ và Lỗ Tư từ tiền tuyến trở về, hai người mồ hôi nhễ nhại, nói chẳng nên lời, thần sắc kinh hoảng tiến vào hội trường hét lớn: “Không xong rồi! Bảo Định thất thủ, toàn thành lửa cháy khắp nơi, quân dân chạy loạn khắp nơi, sư trưởng Sư Đoàn 12 cũng không thấy đâu, đội cứu thương chạy tứ tán mỗi người một ngả; hai người chúng tôi chạy nhanh đến tu viện trước, các tu sĩ khác theo sau cũng sắp tới rồi…”.
Mấy lời này thật sự giống như một quả bom ném vào giữa hội trường, toàn thể tu sĩ, ngay cả linh mục Lôi, cũng lập tức biến sắc. Không khí im lặng và căng thẳng khiến người ta cảm thấy khó thở. Trầm mặc một lát, vẫn là linh mục Lôi bình tĩnh phá vỡ im lặng, nói:
— Việc đã đến nước này, cha ngồi im ở An Quốc, cha cũng không thể tuẫn quốc trên chiến trường… cha phải chuẩn bị chết ở đây!… phó viện trưởng ở lại với cha. Báo Hậu Phương dừng xuất bản. Những huynh đệ khác có thể tự do rời đi, tới tập viện của hội dòng ở Thiểm Tây.
— Không được! Không được! Bất cứ ai cũng có thể không đi; nhưng cha (linh mục Lôi) thì không thể ở lại đây.
— Cha, ngài là lãnh đạo, nếu ngài chết rồi, đám đông như rắn mất đầu, mọi người chỉ có tứ tán; nếu ngài còn, dù cho chúng con chết hết, cộng đoàn của chúng ta vẫn có thể phục hồi.
— Đúng vậy! Cha cần phải rời khỏi nơi này!
Như thế, mỗi người đều thêm lời yêu cầu linh mục Lôi rời đi. Linh mục Lôi nhất thời vẫn còn đầy do dự: ở lại hay rời đi? Ngài ấy thật sự cảm thấy rất ngập ngừng.
MẢNH ĐẤT KHÔ CẰN ĐÁNG THƯƠNG?
Trong đêm hãi hùng ấy, phó viện trưởng tu sĩ Thiên Thọ là người tỏ ra trấn tĩnh và quyết đoán nhất. Ngài ấy nhìn thấy sự do dự của linh mục Lôi, liền dùng giọng điệu bi khẩn, giống như một mệnh lệnh, yêu cầu linh mục Lôi rời khỏi An Quốc, và phải lập tức đi ngay trở lại đại hậu phương.
Linh mục Lôi dưới tình thế không biết làm thế nào đã làm một quyết định trái ngược với ý chí của bản thân:
— Được rồi! cha đi! Cha muốn mang mật thư đi ngay tức khắc.
Lời nói ấy giống như thổi một làn gió mát vào đàn kiến trong cơn nước sôi lửa bỏng. Tinh thần của mọi người cũng vì đấy mà trở nên tốt hơn. Trong hoảng loạn và sợ hãi vẫn không cảm thấy mất đi “Trọng tâm”.
— Ngoài phó viện trưởng ở lại nhà mẹ, những tu sĩ còn lại nếu muốn đi, sẽ phát cho mỗi người 2 đồng tiền, có thể bắt “Tàu hỏa tị nạn” tới phân viện của hội dòng ở Thiểm Tây. Bây giờ tạm thời đóng cửa Chân Phúc Viện, mọi người có thể chuẩn bị một chút.
Theo sau lời tuyên bố tạm thời đóng cửa của linh mục Lôi, Mọi người bắt đầu vội vã trở lại, con tim của mỗi người cũng đều đập loạn không yên, sự sống dường như kết thúc rồi. Những đồng nghiệp của “Báo Kháng Nhật” lại càng thêm phần hoảng loạn. Họ là những thành viên của tờ “Báo Kháng Nhật” nổi tiếng; nên nếu An Quốc thất thủ, sẽ ra như nào thì tốt đây? Mọi người thảo luận chút, quyết định đem tất cả “Báo tồn” và sách báo kháng Nhật tiêu hủy, không lưu lại bất cứ “Bằng chứng” nào cho kẻ địch.
Một que diêm bập bùng ánh lửa, so ánh sáng leo lét với ánh trăng ảm đạm trên trời cao, khiến cho đêm hãi hùng này càng thêm phần đáng sợ. Có một công nhân in ấn vì hoảng loạn mà đã đốt đi mấy đồng tiền giấy của bản thân!
Tôi nhìn ngọn lửa bốc lên trên bầu trời, “Nỗi buồn” đã thay thế cho sợ hãi. Tâm huyết của năm mươi ngày — từ ngày 4 tháng 8 đến ngày 23 tháng 9— công sức của bao nhiêu giáo dân và tu sĩ, trong nháy mắt đã hóa thành tro bụi!
ĐI HƯỚNG NÀO ĐÂY?
Đêm ngày 23 tháng 9 năm 26 Dân Quốc là “Một đêm khó quên nhất” trong cuộc đời linh mục Lôi, nhưng đó cũng là một đoạn hồi ức chẳng có gì đáng để nhớ, bởi vì đêm đó đã khiến con tim của ngài ấy tổn thương sâu sắc.
Đồng hồ điểm 12h, đã là thời khắc giữa đêm rồi, các anh em hối thúc linh mục Lôi nhanh rời khỏi Chân Phúc Viện. Ngài ấy theo đó liền chúc lành cho các anh em Chân Phúc Viện An Quốc. Sau khi chúc lành, ngài ấy không ngừng khóc nức nở, anh em cũng theo đó mà sụt sùi. Phó viện trưởng điềm tĩnh kéo anh em ra, để linh mục Lôi nhanh chóng rời đi.
Linh mục Lôi mặt mày hốc hác, cảm giác trống rỗng, âm thầm rời khỏi An Quốc, xa cách ngôi thánh đường Dòng Têrêxa mới xây dựng và chuẩn bị khánh thành vào ngày mai. Với linh mục Lôi, thì đó giống như là sự vĩnh biệt vậy.
Đêm thăm thẳm mịt mờ, linh mục Lôi và tôi, mỗi người cưỡi trên một chiếc xe đạp, lọc cọc trên con đường đất cô tịch thiếu sức sống. May mà có vầng trăng khuyết theo gót chúng tôi, mượn ánh sáng mờ nhạt của nó, chúng tôi có thể thản nhiên chạy băng băng về phía trước. Ước chừng chạy được khoảng năm phút, linh mục Lôi ngoái đầu nhìn tôi, thở dài một cái:
— Aiiiiiii! Cả đời chưa từng trốn chạy cách hoảng loạn như thế! Chúng ta cuối cùng đã chạy tới đâu rồi vậy?
— Đi đâu? Đi phía nam!
— Đúng vậy! Chính là phía nam. Cha quyết không đi về đại hậu phương, cha muốn đi tìm Sư Trưởng, phải tiếp tục tòng quân!
— Đi đâu tìm Sư Trưởng ạ?
— Đi khắp chân trời góc bể!…
KHÔNG BỎ QUA BẤT CỨ CƠ HỘI NÀO
Sự ra đi vội vàng của linh mục Lôi trong đêm đó, đơn thuần chỉ là để thuận theo yêu cầu của chúng tu sĩ, nên mới ra cái quyết định trái ngược với ý chí của bản thân. Vì vậy, khi chúng tôi đang lên đường, ngài ấy liền hối hận; một mặt chạy như bay về phía trước, một mặt hồi tưởng lại những chuyện đã qua. Khi ra khỏi thành không xa, ngài ấy đột nhiên dừng lại, nói với tôi: “Chúng ta nên trở lại đi! Chúng ta không thể chạy nạn cách hoảng loạn như vậy”. Tôi biết linh mục Lôi tính cách “Kiên cường”;“Càng khuyên ngăn, càng kiên trì”. Tôi liền thay đổi ngôn từ nói với ngài ấy:
— Chúng ta không phải là chạy nạn, mà là đi tìm Sư Trưởng á!
— Đúng vậy! Chúng ta đi tìm Sư Trưởng! Chúng ta quyết không qua Hoàng Hà để tới đại hậu phương.
— Đương nhiên rồi!
Linh mục Lôi đã cười, rồi nhảy lên xe, gia tăng sức mạnh, chạy như bay về phía nam. Trên đường xuống phía nam, gặp bất cứ quân nhân nào, linh mục Lôi đều hỏi thăm khu vực phòng thủ của Sư Đoàn 12. Bởi vì chẳng thăm hỏi được gì, nên ngài ấy quyết định đi Hình Đài thăm linh mục Tuyên, bạn hữu của ngài ấy. Một đường ngày đi đêm nghỉ, chúng tôi không biết đã xin tá túc đêm ở bao nhiêu thánh đường; nhưng thánh đường để lại nhiều ấn tượng nhất cho linh mục Lôi là ở thánh đường Cao Di. Ở đó, ngài gặp một thanh niên tên Tống Học Nhân, anh ta sau này cũng tham gia vào công việc cứu thương của linh mục Lôi. Linh mục Lôi mặc dù rất mệt mỏi, nhưng khi gặp tri kỷ thì không biết mệt mỏi là gì. Ngài ấy trò chuyện thâu đêm với chàng thành niên ấy. Di ngôn sau cùng mà linh mục Lôi để lại cho chàng thanh niên này là ba chữ: “Đừng chán chường”.
Ngày thứ ba, chúng tôi đã tới Hình Đài. Trên đường nhìn thấy khắp nơi già trẻ mặt mày hốc hác dắt dìu nhau chạy nạn. Mỗi chuyến xe lửa đi về phía nam, đều chất đầy người tị nạn, nhiều thanh niên thậm chí bất chấp nguy hiểm leo lên nóc tàu, quyết không nguyện làm dân vong quốc. Vừa tới Hình Đài, thứ nhìn thấy chất đầy bên cạnh trạm xe lửa không phải là hàng hóa, mà là hàng lớp người chuẩn bị tị nạn. Đương thời, trời cũng đã vào cuối thu, gió bắc bên ngoài Trường Thành thổi rít từng cơn, khiến cho những nạn dân này co cụm thành những nhóm nhỏ dăm ba người, sưởi ấm cho nhau.
Linh mục Lôi là người lấy công việc làm sinh mạng. Ngài ấy không từ bỏ bất cứ một cơ hội làm việc nào. Ngài ấy nhìn thấy những nạn dân bị đói rét đầy đọa, khiến con tim ngài ấy đau nhói, lập tức bắt tay tiến hành công việc cứu trợ. Ngài ấy nhận được sự tán đồng của giám mục Thuận Đức, cũng như sự trợ giúp của linh mục Tuyên, quyết định trước là thiết lập những trạm xá và những điểm phát cháo nhỏ để tiếp tế nạn dân. Với danh tiếng và những lời diễn thuyết động lòng người, linh mục Lôi không tới hai ngày đã quyên góp được hơn nghìn đồng. Chúng ta cũng nên biết, lúc ấy, mỗi túi bột mì chỉ bán với giá hơn hai đồng mà thôi, các loại hoa màu khác lại càng rẻ hơn nữa. Vậy nên, công việc phát cháo và chữa bệnh đã nhanh chóng bắt đầu (ngày 29 tháng 9).
Chú thích: Năm 38 Dân Quốc, sau khi Đại Lục rơi vào tay Trung Cộng, chàng thanh niên Tống Học Nhân cũng tị nạn tới Hồng Kông, và tương phùng với tôi. Anh ta đã cổ vũ và giúp đỡ tôi tới Tiu Keng Leng phục vụ nạn dân. Sau này đến Đài Loan, cũng không ngừng ở bên cạnh hiệp trợ phát triển di nghiệp của linh mục Lôi Minh Viễn, cũng như hội dòng Gioan Tẩy Giả. Sau này, Tống Học Nhân tới Tây Đức, sự nghiệp cũng coi là thuận lợi, nhiều lần chuyển khoản phát triển di nghiệp của Lôi Minh Viễn, ví như kinh phí để xuất bản và tái bản tập truyện này, phần lớn cũng nhờ Tống tiên sinh hỗ trợ.
LÀM LẠI TỪ ĐẦU
Trong ngày khai mở những nơi phục vụ cứu trợ nạn dân, Thương Chấn tướng quân cũng đi xe riêng lên phía bắc, dừng chân nghỉ ở Hình Đài, và chuẩn bị tới Thạch Gia Trang triệu tập một cuộc họp với các tướng lĩnh Hoa Bắc. Linh mục Lôi nghe nói vậy liền đi thăm hỏi và nghe ngóng về nơi đồn trú của Sư Đoàn 12. Thương Tướng quân nói: “Sư trưởng Đường Hoài Nguyên, sư trưởng Sư Đoàn 12 cũng tới Thạch Môn tham gia buổi họp quân sự. Tôi nửa đêm hôm nay cũng sẽ bắc tiến, mời ngài Lôi cùng đi với tôi đến Thạch Môn!”. Linh mục Lôi vừa nghe thấy thế, liền vui mừng muốn nhảy cẫng lên, liên tục nói cám ơn và quyết định theo Thương tướng quân bắc tiến.
Chúng tôi trở lại tòa giám mục, đem công việc phục vụ nạn dân chuyển giáo cho linh mục Phùng Khuê Chương thay thế. Linh mục Lôi bây giờ muốn bắt đầu làm lại, quyết định bắc tiến tòng quân, dấn thân tham gia kháng chiến cách tích cực hơn.
Nửa đêm ngày 29 tháng 9, chúng tôi lên xe riêng của Thương tướng quân, tiến về Thạch Môn. Thương tướng quân mời linh mục Lôi ngồi cạnh ông ấy, và trò chuyện tâm tình cả đêm không ngủ. Sau nay, hai người trở thành tri kỷ; linh mục Lôi mỗi lần tới phụ đô Trùng Khánh công tác, Thương tướng quân ắt sẽ hẹn gặp trò chuyện; sau khi linh mục Lôi qua đời, Thương tướng quân còn chủ trì đại lễ truy điệu. Ngài ấy nhiều lần còn gọi linh mục Lôi là thánh nhân, có thể quen biết linh mục Lôi thực sự là vinh hạnh to lớn trong cuộc đời.
Lại nói, khi xe tới Thạch Gia Trang, lúc đó đã là sáng sớm ngày 30 tháng 9, Thương tướng quân mời linh mục Lôi tới nhà công nghỉ ngơi. Linh mục Lôi đã từ chối không nhận, mà lịch sự cáo từ xin đến trú ngụ ở nhà thờ gần đó. Ngày hôm sau, chúng tôi không chỉ tìm thấy sư trưởng Đường, mà còn tìm thấy đội cứu thương mà linh mục Lôi đã thành lập.
Hóa ra, ngày 23 tháng 9, khi Sư Đoàn 12 từ Bảo Định rút về phía nam, chẳng có tứ tán; đội cứu thương dưới dự thống lĩnh của phó đội trưởng Bảo Lộc trước sau vẫn luôn giữ liên lạc với lãnh đạo sư đoàn, bảo toàn lực lượng xuôi về An Quốc trấn thủ. Nhưng chỉ vì tối hôm đó tin đồn đã làm náo loạn Chân Phúc Viện, hại linh mục Lôi cả đêm trốn chạy tới Hình Đài, nên giờ đây, ngài ấy mới được gặp lại những đứa con mà ngài yêu mến, chúng đội viên mới có thể gặp lại người cha nhân từ của họ, mọi người đều hưng phấn hò hét nhảy loạn như cuồng phong. Linh mục Lôi thì sao? Ngài ấy mắt rưng rưng vì phấn khích, mỉm cười đáp lễ, nửa lời cũng nói không ra. Là đang hối hận vì những việc đã qua? Hay là đang hoan hỉ vì mong ước được vẹn toàn quá mong đợi? Hay là vui mừng kinh ngạc? Là hưng phấn? Là…?
CHẾT CÙNG NHAU NÀO!
Sau khi cuộc họp quân sự tại Thạch Môn kết thúc, các tướng lĩnh Hoa Bắc lập tức chấn chỉnh ba quân, chuẩn bị phản công. Sư Đoàn 12 theo lệnh được phái tới vùng thượng du sông Hô Đà, phía tây bắc Thạch Gia Trang. Đội cứu thương cũng theo chỉ huy sư đoàn 12 tiến vào đóng quân ở Hồ Gia Trang, huyện Bình Sơn.
Linh mục Lôi nhận thấy đội cứu thương thêm một người hay thiếu một người cũng chẳng quá hệ trọng, nên liền theo kế hoạch đã định, phái tôi và tu sĩ Lương cùng tới đại hậu phương đi học – tôi lúc ấy vẫn là học sinh năm thứ ba thần học.
Ngày 6 tháng 10, chúng tôi chào tạm biệt linh mục Lôi và đội cứu thương đi đến Thạch Gia Trang, đợi tàu hỏa để tới Thiểm Tây. Khoảng 8 giờ tối hôm ấy, chúng tôi còn đang đứng ở trạm tàu lửa đợi mua vé, đột nhiên hiệu còi vang lên, đèn đóm cũng bị dập tắt. Trong đêm tối có hai người tay cầm đèn pin, ở giữa đám đông dọi tới dọi lui, giống như đang tìm kiếm thứ gì vậy. Không lâu thì hai người họ đến trước hai người chúng tôi hỏi ngược hỏi xuôi. Chúng tôi theo sự thật mà nói. Bọn họ bắt đầu kiểm tra tay quải nho nhỏ trong tay chúng tôi, cũng chẳng nói gì và cũng chẳng trả lại cho chúng tôi. Khi kiểm tra túi áo của tôi, tiền vé đủ mua hai vé tàu hỏa đi Thiểm Tây cũng bị bọn họ phát hiện, một trong số họ liền nói: “Hai người đi lại đây!”
Đi đến phòng của bọn họ tiếp tục kiểm tra, một trong số họ đã dùng chiêu “Thuận tay dắt dê”, tiền của chúng tôi cũng vì đó không cánh mà bay.
Bọn họ tùy tiện hỏi vài câu, thì kêu chúng tôi rời đi. Tôi cũng rất khách khí nói với một người trong số họ:
— Tiên sinh, lộ phí của chúng tôi đâu?
— Làm sao? Quân nhân có thể lấy tiền của anh sao?
— Vậy tiền của chúng tôi đâu mất rồi?
— Ừ!…..
Tu sĩ Lương sợ đêm dài lắm mộng, kéo tôi nhanh rời đi. Nhân viên kiểm tra nghiêm mặt: “Muốn đi, trước tiên phải ký tên, thanh minh các người không mất bất cứ thứ gì?”
Tôi từ chối ký tên. Tu sĩ Lương khuyên tôi đừng tự tìm phiền phức nữa. Khi ấy, Hách Đoạn Trưởng là một giáo dân và cũng là học trò của linh học Lôi, anh ta cũng đến khuyên tôi ký cho xong chuyện.
Lộ phí không còn nữa, không thể mua vé đi tàu. Tôi và tu sĩ Lương thương lượng hồi lâu, quyết định trở lại Hồ Gia Trang xin chỉ thị của linh mục Lôi. Vừa nhìn thấy linh mục Lôi, chúng tôi liền thay phiên nhau thuật lại rõ ràng cảnh ngộ mới gặp, linh mục Lôi từ tốn đáp: “Tốt thôi, đừng đi nữa; đó là thánh ý của Thiên Chúa. Chết, chết cùng nhau nào!” Thế là tôi lại vứt bút tòng quân, theo linh mục Lôi tham gia công việc kháng chiến.
LINH MỤC LÔI PHÁT TÀI RỒI!
Cuối tháng 10, năm 26 Dân Quốc, không lâu sau khi đội cứu thương theo quân tiến vào đồn trú tại Hồ Gia Trang, huyện Bình Sơn, từ trong quân truyền nhau một tin tức hả hê lòng người: “Quân ta lễ quốc khánh sẽ tổng phản công, lại phải tới Bắc Bình ăn tết rồi!” chúng tôi nghe được tin tức này, thì vạn phần hưng phấn, linh mục Lôi thì lại càng vui vẻ hơn nữa.
Tối ngày mùng 9, chúng tôi nhận lệnh: “Buổi sáng quốc khánh thức dậy, dùng cơm và chờ lệnh xuất phát”. Sau khi linh mục Lôi nhìn thấy mệnh lệnh, lập tức triệu tập đội cứu thương dặn dò: “Anh em thân mến! Cơ hội phát tài tinh thần đến rồi! ngày mai quân ta tổng phản công… anh em hãy nhớ, cứu thêm một thương binh là tích thêm một phần thiện hạnh”. Diễn thuyết xong, tinh thần của mọi người thập phần dâng cao. Mỗi người không ngừng ôm ấp một con tim rực lửa, chuẩn bị thể hiện bản lĩnh của mình.
Ba giờ sáng ngày quốc khánh, chúng tôi thức dậy với con tim hưng phấn. Chúng tôi ăn cơm mà giống như ăn tiệc năm mới vậy. Khoảng 4h, mọi người bắt đầu di chuyển rộn ràng trên con đường đất bao trùm bóng tối. Tiếng pháo khi ấy đã rát rền và càng lúc càng gần. “Hết mình nào! Sắp tới hỏa tuyến rồi!” linh mục Lôi nói nhỏ nhẹ động viên chúng tôi. Một giờ sau, một tia mặt trời từ phía đông chiếu tới, mọi người thình lình cảm thấy phương hướng hành quân không phải là đông bắc, mà là tây nam. “Thật xúi quẩy, lại là rút lui!” một chiến sĩ cứu thương khi lờ mờ hiểu ra bí mật quân sự này đã thốt lên. Một vị cứu thương giáo dân khác đáp trả một cách hài hước hơn: “Không phải lui quân, mà là chuyển hướng tiến công đó!”.
Hóa ra quân địch dùng “Chiến thuật chớp nhoáng” đã tiến chiếm Thạch Gia Trang, và có ý nhòm ngó Nương Tử Quan. Mệnh lệnh quân đoàn 3 nhận được là trong một ngày một đêm phải “hỏa tốc” tới Cựu Quan, và phòng thủ ở cánh phải của Nương Tử Quan. Chúng tôi vì thế phải hành quân cấp tốc, trèo đèo lội suối, đi đã ba ngày mà vẫn chưa thấy Cựu Quan. Quân địch đã nhanh chân đến trước. Quân ta liền lấy “Tân Quan” là căn cứ, tấn công Cựu Quan. Thế trận đẫm máu cứ như thế đã triển khai 15 ngày rồi.
Các đơn vị của bộ chỉ huy sư đoàn và đội cứu thương thì ngày đi đêm nghỉ, nên chậm chễ hơn một ngày so với bộ đội vũ trang hành quân cấp tốc. Mãi cho đến khi chúng tôi dựng trại ở thôn Hòe Thụ, cách “Tân Quan” hơn ba cây số, tiếng pháo và tiếng súng trên hỏa tuyến đã vang thành một dải. Chúng tôi thì vẫn áng binh bất động. Điện thoại giục chúng tôi ra tiền tuyến phía trước, cấp cứu thương binh thì vẫn không ngừng reo lên. Theo quy định, chúng tôi trực thuộc đội cứu hộ của sư đoàn, chỉ phụ trách tiếp nhận thương binh do đội cáng thương giao cho, và vận chuyển tới các bệnh viện dã chiến hoặc những nơi tiếp đãi thương binh gần các trạm xe. Chỉ vì thương binh trên hỏa tuyến quá đông, nhân lực của trung đoàn quá tải, sư trưởng cầu cứu chúng tôi đảm nhận công tác cứu thương trên hỏa tuyến. Tính tình của linh mục Lôi thì “Hành hiệp trượng nghĩa, mà việc nhân nghĩa thì chẳng nhường ai”, vậy nên vì quốc gia, liền chẳng so đo những quy định cứng ngắc, liền không chút do dự đáp ứng song song hai phần công việc cứu thương, chuyển người từ hỏa tuyến tới tổng bộ chỉ huy, rồi từ đó chuyển tới trạm xe.
Sau khi linh mục Lôi nhận đảm nhiệm công việc trên hỏa tuyến, liền lập tức phát cho mỗi đội năm bộ cáng cứu thương, và dẫn đầu mọi người trực tiếp hướng về “Tân Quan”. Tới tiền tuyến, nhìn thấy trong chiến hào, dưới lùm cây, khắp nơi đều là các thương binh đang rên rỉ trong vũng máu. Chúng tôi lần đầu nhìn thấy quan binh vì dân mà bị thương, tự nhiên trong người phát sinh sự kính phục và thương mến; vì thế, mọi người như quên đi mọi mệt nhọc vất vả, càng chẳng quan tâm tới tiếng đạn bom, gắng hết sức đem những người trọng thương lên cáng, chạy như bay về bệnh xá sư đoàn chữa trị.
Khi lần đầu tiên tới hỏa tuyến cáng thương, linh mục Lôi nhất định muốn bản thân tự mình khiêng chuyển cáng thương. Mọi người vì tuổi cao sức yếu của ngài ấy mà cật lực khuyên can. Đoàn trưởng Dương, bạn hữu của linh mục Lôi, đang chỉ huy tác chiến trên hỏa tuyến, ông ấy lấy danh nghĩa chỉ huy cười nói với linh mục Lôi: “Tôi lệnh cho ngài làm đại tướng áp đội (bảo vệ và giám sát việc quân)”. Từ đó, linh mục Lôi mới không kiên quyết tự mình vận chuyển cáng thương nữa. Nhưng nửa đêm hôm ấy, cũng không biết là quân địch đánh úp, hay là quân ta phản công, tiếng đạn pháo trên hỏa tuyến vang liên lên hồi, đơn giản là còn dày hơn pháo trúc khi mừng năm mới. Điện thoại tiền tuyến không ngừng réo gọi chúng tôi tiến về tiền tuyến cấp cứu thương binh. Những anh em cứu thương thực sự quá mệt mỏi rồi. Linh mục Lôi không muốn kinh động đến mộng đẹp của họ, nên chỉ có triệu tập hơn hai mươi tu sĩ chúng tôi đi tải quân. Lần này chúng tôi bất lực xoay chuyển sự cố chấp của ngài ấy, chỉ biết để ngài ấy lần nữa thỏa cơn ghiền tải thương binh.
Trong trận huyết chiến mười lăm ngày tại Tân Quan, chúng tôi đã cáng cứu hơn ngàn thương binh, khiến quan binh Sư Đoàn 12, ai ai cũng hùng dũng giết địch. Mọi người còn cỗ vũ động viên lẫn nhau: “Lên thôi! Bị thương cũng có sao đâu, có đội cứu thương của linh mục Lôi cứu chúng ta rồi! sợ gì chứ!”
linh mục Lôi đáp trả hài hước: “Chúng ta phát tài to rồi!”
HẠT MUỐI QUÝ GIÁ
Tháng 10 năm 26 Dân Quốc, trong 15 ngày huyết chiến ở Tân Quan, Sơn Tây, linh mục Lôi không chỉ phát tài cấp cứu hơn ngàn thương binh, mà còn chịu không ít những cực khổ, tích trữ được rất nhiều “Khổ hạnh”. Trong tất cả những thống khổ ấy, thứ lớn nhất và khó chịu đựng nhất là “Đói”.
Đêm ngày 9 tháng 10, chúng tôi phụng mệnh hành quân cấp tốc, trèo đèo lội suối từ Hồ Gia Trang tới Tân Quan, để chặn đường tiến quân của địch. Vì vậy, lương thực mang theo rất ít. Trong khi đó, quân lương mới nhất thời vẫn chưa thể vận chuyển đến. Quân đoàn trưởng đã hạ lệnh toàn quân xoay xở lương thực tại chỗ, chờ đợi viện lương. Núi Thái Sơn vốn là vùng đất cằn cỗi, dân chúng các thôn lân cận lại chạy nạn gần hết. Vậy nên, tại chỗ xoay xở lương thực, nói dễ nhưng thực hiện thì khó biết bao!
Ngày nọ, ở trong một nhà kia phát hiện mấy túi thóc, chúng tôi lập tức dùng cối đá qua loa loại bỏ vỏ, nấu thành những nồi cháo loãng để duy trì sự sống. Có lần, tôi ở trên tiền tuyến nhìn thấy mấy binh sĩ mặt mày xanh xao, đang đập những quả hạnh đào ăn chống đói trong chiến hào. Họ nói với tôi, dùng hạt hạnh đào duy trì sự sống đã hai ngày rồi, nên cả ngày đau bụng không thôi!
Tuy nhiên, điều khiến người ta cảm thấy thống khổ hơn nữa là tìm không ra muối ăn. Vận chuyển thương binh là công việc tiêu tốn rất nhiều thể lực. Cả ngày mồ hôi đầm đìa nhễ nhại, lại chẳng có muối để bổ sung, loại thống khổ này so với đói còn khó chịu hơn nhiều.
Tu sĩ nhà bếp một ngày kia phát hiện trong nhà nọ có nửa vại rau muối. Mọi người nhìn thấy thì tranh nhau ăn, phút chốc thì đã ăn sạch sẽ. Đương nhiên, chúng tôi cũng để dành cho linh mục Lôi một ít. Ngài ấy vui vẻ nói: “Hôm nay được ăn một bữa ra trò rồi!”
Có một anh lính cần vụ của sư đoàn không biết từ đâu tìm được một ít muối; anh ta cũng rất biết cách kinh doanh, đứng ở đầu đường không ngừng rao bán một hào một hạt muối. Tôi mua cho linh mục Lôi một đồng muối, anh ta hào phóng đã cho thêm hai hạt nữa.
Sau 20 ngày, chúng tôi đã tới địa hạt huyện Tần Nguyên, một đồng có thể mua tới 200 trái trứng gà. So sánh như thế mới thấy, muối ăn của Thái Hành Sơn quá quý giá rồi.
LẠY THÁNH MẪU, MẸ CỦA CON!
Cuộc sống hai tuần ở Tân Quan quả thực vất vả và căng thẳng, nhưng cũng có khi cảm thấy rất hứng thú và thú vị. Quân địch dường như rất tinh thông chiến thuật khiến con tim đối phương trở nên tê liệt, để dễ bề đạt được chiến thắng. Trong 15 ngày đó, ban chỉ huy sư đoàn đồn trú trong thôn dường như không ngày nào không bị máy bay địch oanh tạc. Vì thế, chúng tôi ngoài mệt mỏi đói khát, còn không ngừng gia tăng cả sự kinh hoàng và sợ hãi.
Khoảng ba giờ chiều ngày nọ, chiến sự tiền tuyến dần trở nên yên ắng, nên số lượng thương binh cũng ít dần. Linh mục Lôi nhân thời gian rảnh rỗi này, đã tập trung hơn hai mươi tu sĩ cùng nhau đọc kinh. Khi đang hát kinh trưa giờ chín, máy bay địch lại đến. Chúng tôi chỉ nghe tiếng thì thầm: ù…ù…ù! làm gián đoạn tiếng đọc kinh của chúng tôi. Nơi đọc kinh của chúng tôi là cái hang động, nên không bị bom đạn ảnh hưởng. Mặc dù chúng tôi đều bình an vô sự, nhưng mọi người đều mặt mày tái mét, lặng yên sững sờ.
Ước chừng qua đi khoảng năm phút, đột nhiên chạy tới hai người mặt phủ đầy đất cát, vừa tiến ra khỏi hang động, thụp một tiếng ngã xuống dưới chân linh mục Lôi, hai tay chắp lại run rẩy, niệm lí nhí trong miệng: “Lạy Thánh Mẫu! Lạy Thánh Mẫu!”
“Làm sao vậy?” linh mục Lôi dùng âm thanh thân thiết và nhu hòa hỏi.
Bọn họ giống như kẻ ngốc, giống như chẳng có nghe linh mục Lôi tra vấn, chỉ râm ran niệm: “Lạy Thánh Mẫu! Lạy Thánh Mẫu!”. Và hỏi một lần nữa, bọn họ mới như trong mộng tỉnh lại, nghẹn ngào nói: “Chúng tôi bị chúng bom rồi!”.
Người lớn hơn tiếp tục nói: “Chúng tôi nghe tiếng máy bay đến, chưa kịp trốn chạy thì nhà sập, tôi tưởng tôi đã chết rồi. Lạ thay! Tôi chẳng hề nhìn thấy thiên đường, cũng chẳng nhìn thấy địa ngục. Tôi không thể ngừng hét lên một tiếng: “Lạy Thánh Mẫu!” đột nhiên trước mắt có luồng sáng chiếu qua khe hở của đống đổ nát, tôi nhận ra: Vốn dĩ là bị trúng bom, nhưng vẫn còn sống! Khi tôi theo hướng mặt trời chui ra ngoài, nghe thấy tiểu đệ Triệu Kim Lộc cũng đang gào thét: “Lạy Thánh Mẫu!”. Thế là hai người chúng tôi liền chạy tới đây”.
Khổ chiến ở Tân Quan tới ngày thứ năm, quân lương từ hậu phương mới được chuyển tới. Quân y phái người thông báo cho chúng tôi đi lãnh bột gạo, đương nhiên cũng có cả muối nữa. Tôi liền nhảy phắt dậy, dẫn theo hai tu sĩ và năm giáo dân tới quân nhu bàn bạc cấp dưỡng. Khi đang đi trên đường, đột nhiên còi báo động vang lên. Nói thì chậm nhưng tình huống lúc đó diễn ra rất nhanh, máy bay địch đã ba lần xuất hiện trên bầu trời, chúng tôi lập tức nép thân dưới cánh cửa lớn, bên tai không ngừng nghe thấy những tiếng bom nổ: Ùm… Ùm… Ùm…
Đám người chúng tôi ở bên cửa sổ đều đứng sững sờ tại chỗ, đặc biệt là khi nghe thấy tiếng bom rơi chát chúa xé nát bầu trời. Con tim của chúng tôi gần như ngừng đập. Có vị tu sĩ trẻ rất dễ thương, bom rơi một phát là mắt anh ta chớp một cái, miệng liền hô: “Mẹ tôi ơi!”
Một vị giáo dân khác, khi bom rơi, anh ta luống cuống nói với chúng tôi: “Nhanh, nhanh, mau quỳ xuống theo hướng tây bắc!”. Chúng tôi kinh hồn chẳng biết chạy theo hướng nào, ai cũng chẳng nghe cách của anh ta, chỉ biết đứng sững sờ, và cũng chẳng lưu tâm thắc mắc hỏi anh ta “Quỳ theo hướng tây bắc” có nghĩa là gì.
Bụi đất tứ phía đã bao phủ khắp nơi, không ít trong bọn chúng cũng đi lạc vào cả trong mắt của chúng tôi. Những tiếng nổ rất lớn như muốn xới tung cả mặt đất, cũng tạm thời lấy đi thính giác của chúng tôi. Không khí sợ hãi ấy khiến thần kinh của chúng tôi ra như mê loạn. Chúng tôi đều ngẩn ngơ sửng sốt như đám người đã chết vậy.
Cũng không biết đã qua bao nhiêu phút, trong cảm giác mơ hồ của tôi, dường như nghe thấy một âm thanh từ xa vọng lại: “Aizaaa! Cứu mạng với!” tôi đứng dậy theo bản năng, sự kinh hồn của mọi người dường như cũng đã trở lại thân thể, ngẩn ngơ nhìn nhau, và phát hiện chúng tôi đều không có bị thương.
“Thật là nguy hiểm! Cảm tạ Thiên Chúa!” một vị giáo dân đã phá vỡ sự im lặng.
“Thật nguy hiểm! Cảm ơn Thánh Mẫu!” mọi người không hẹn mà cùng đồng thanh.
“Aiza! Cứu mạng! Cứu mạng!” tiếng kêu càng lúc càng rõ. Chúng tôi lại không hẹn mà cùng nhau leo lên, đi theo phương hướng của tiếng hô.
“Thật nguy hiểm!” Vâng, một chút cũng không bịa đặt. Ở bệnh viện phía sau này, cách chúng tôi không đến hai mươi thước, trong đám cành lá ngổn ngang và trong những hố trũng dưới tán cây đại thụ, năm thi thể nằm ngổn ngang. Có cái còn bị xé toạc làm hai, có cái phần trên còn kiếm không ra, chỉ còn nhìn thấy một đám máu thịt lẫn lộn.
Cứu người quan trọng, chúng tôi đã quên mất cả kinh hãi, cũng chẳng để ý tới lãnh lương thực, lập tức ba chân bốn cẳng đem thương binh và tử thi cáng tới khu quân y.
PHAOLO TRƯƠNG, HẸN GẶP Ở THIÊN ĐƯỜNG!
Trong những người bị trúng bom có một hộ sĩ quân y họ Trương. Anh ta mặc dù không phải giáo hữu, nhưng lại nhiều lần qua lại nói chuyện với chúng tu sĩ và giáo dân, nên cảm tình rất tốt với đạo, nên anh ta cũng biết một số giáo lý của đạo. Anh ta bị thương rất nặng, âm thanh “hô cứu” chính là của anh ta. Người anh em Thực Đức theo đó đã rửa tội cho anh ta, lấy tên thánh là Phaolo. Ước chừng qua khoảng mười phút, anh ta đã vĩnh biệt thế trần vì mất máu quá nhiều. Khi anh ta nấc nghẹn hít ngụm khí cuối cùng, người anh em Thực Đức nói với anh ta: “Phaolo Trương, hẹn gặp ở thiên quốc!” anh ta gật đầu, nở nụ cười và thanh thản ra đi.
Trong những người bị trúng bom lần đó, người duy nhất may mắn thoát khỏi vừa vặn lại là một giáo hữu trẻ tuổi, tên là Trương Chí Văn, anh ta mới 19 tuổi. Chúng tôi đổi tên cho anh ta là “Tiểu Văn Tự”. Khi máy bay địch bay tới trên không, anh ta và năm người bị thương đều ẩn nấp dưới cây đại thụ. Khi anh ta nghe tiếng “Cha.. Cha…”, thì theo bản năng nhảy lăn lộn trên mặt đất. Anh ta cảm thấy đùi của mình có chút bỏng rát, liền rơi vào hôn mê. Sau khi tỉnh lại, vừa mở mắt liền thấy người khác bị thương hoặc không may tử nạn, còn anh ta chỉ bị vỏ đạn làm cháy xém mất chiếc quần.
Khi ban chỉ huy sư đoàn bị oanh kích, linh mục Lôi đang dẫn một số anh em đội cứu thương chuyển thương binh từ Tân Quan trở về. Trên đường, ngài ấy từ xa nhìn thấy ba chiếc máy bay đang lượn lờ trên bầu trời, nơi bộ chỉ huy sư đoàn đóng quân, trong tim ngài ấy cũng rất lo lắng, đôi mắt không ngừng ngóng ngóng trông trông có phải người mình bị thương hay không. Tới khi về tới bộ chỉ huy sư đoàn, phát hiện chúng tôi đều bình an vô sự, lại nghe nói Phaolo Trương lãnh nhận phép rửa trước khi qua đời, ngài ấy vô cùng mừng rỡ, và lớn tiếng tán thưởng người anh em Thực Đức “Lâm nạn không hoảng”.
Lưu phó quan, không phải là giáo hữu, người đồng hành với linh mục Lôi, cũng là chính trị viên do bộ chỉ huy sư đoàn phái đến bổn đội, anh ta nói cách cường điệu: “Trên đường, tôi từ xa nhìn thấy máy bay địch oanh kích bộ chỉ huy sư đoàn, tôi liền đoán định nó sẽ oanh tạc không trúng giáo dân Công Giáo, mọi người xem quần của “Tiểu Văn Tự” bị cháy rồi, nhưng lại chẳng bị thương đến một sợi lông!”
TỪ BIỆT TÂN QUAN
Từ ngày 14 đến ngày 28 tháng 10 năm 26 Dân Quốc, cuộc sống căng thẳng trong hai tuần ở Tân Quan, Sơn Tây chứa đựng biết bao câu chuyện xúc động lòng người, và cũng gặp không ít những câu chuyện hài hước thú vị. Linh mục Lôi với chủ trương nhất quán “Phải chi phối hoàn cảnh chứ không để hoàn cảnh chi phối”, thường triệu tập tu sĩ chúng tôi cầu nguyện công khai trong những lúc rảnh rỗi. Chúng tôi không chỉ cử hành thánh lễ vào mỗi buổi sáng, mà còn tận lực duy trì thói quen “Mỗi ngày bảy lần ca ngợi Chúa” của Chân Phúc Viện. Chỉ cần có thời gian, ngài ấy liền lệnh cho chúng tôi đúng giờ cùng nhau hát Kinh Mân Côi. Trong đêm trăng thanh gió mát, trong tiếng súng nổ pháo oanh, thỉnh thoảng vẫn truyền ra những tiếng đọc kinh lanh lảnh, vừa hát vừa hòa âm cực kỳ cảm động lòng người, khiến cho khói lửa chiến tranh gia tăng thêm sự thi vị, cảm thấy siêu thoát trong những âm thanh khủng bố. Linh mục Lôi quả thực có kỹ năng đó!
Khi chúng tôi vừa cảm nếm đời sống chiến địa cũng có chút ý vị, đột nhiên Quân Y lệnh cho chúng tôi, ngày 27, đem những thương binh còn lại ở bộ chỉ huy sư đoàn, lập tức chuyển toàn bộ tới đại hậu phương, một người cũng không bỏ sót. Cùng lúc đó, chiến sự ở Tân Quan đã tạm chuyển sang im ắng, nhưng tiếng đạn pháo vẫn lác đác từ ba phía truyền đi trong gió, đôi khi còn rơi xuống nơi chúng tôi đóng quân. Mặc dù việc quân thường là duy trì bảo mật, nhưng với những hiện tượng này, có thể suy đoán lại sắp phải di chuyển trận địa rồi.
Tôi âm thầm đến hỏi Lưu phó quan về tình hình chiến sự, tin tức tôi nghe được là “Chuẩn bị xuất phát!”. Tôi đem bí mật việc quân này nói cho linh mục Lôi, gặp phải “Cục sắt cứng” như ngài ấy, ngài ấy nhìn tôi chằm chằm và bảo tôi: “Con yên tâm! Sư trưởng nói rồi! tử thủ Tân Quan!”
Tôi biết nhiều về cá tính của linh mục Lôi, nên chẳng có giải thích thêm với ngài ấy, nhưng đi bàn bạc với phó đội trưởng tu sĩ Bảo Lộc. Sau đó, do tu sĩ Bảo Lộc đã giành hết thời gian để trò chuyện, mới đánh động tới linh mục Lôi, để cho phép những tu sĩ và anh em cứu thương bị bệnh theo thương binh rời khỏi tiền tuyến trước thời hạn, tới đại hậu phương chờ đợi. Nếu không thì hậu quả sẽ khó lòng tưởng tượng.
Buổi sáng ngày 28, tiếng đạn pháo đột nhiên dừng hẳn, ngoài bộ đội tác chiến, tất cả các đơn vị trực thuộc bộ chỉ huy sư đoàn, đều hẹn tháo lui trước hoàng hôn, tập trung đợi lệnh ở trạm xe lửa Lũng Địa Trình Gia.
Một ngày trước khi chuyển thương binh, những hộ sĩ và đội cứu thương vẫn chưa có quay lại, số ít nhân viên phục vụ của chúng tôi đang vội vàng hoảng hốt nhặt nhạnh những gì quan trọng nhất, đem bột mì và những thứ cồng kềnh vất bỏ. Chúng tôi từ biệt trấn Cây Hòe, hướng về Tân Quan cách đó hơn ba cây số về phía bắc và nói lời từ biệt: “Tân Quan, hẹn gặp lại!”.
LẠNH NGOÀI THÂN NHƯNG ẤM TRONG TIM
Tình hình chiến sự khi ấy là như vầy: quân ta hai ngày trước, sớm đã bỏ lại Nương Tử Quan, nhưng Quân Đoàn 3 ở cánh phải Tân Quan vẫn không chỉ cố thủ cứ điểm, mà còn đoạt lấy mấy ngọn núi từ trong tay địch. Vì vậy, quân địch không dám từ Nương Tử Quan đánh thẳng vào nội địa Sơn Tây, nhưng phải đi đường vòng chia làm ba đường vây lấy Tân Quan. Bộ chỉ huy quân sự trung ương vì nghĩ cho toàn bộ đại cục, không muốn đổi nhỏ lấy to, liền lệnh cho quân đoàn ba cấp tốc thoái lui.
Sư trưởng Đường Hoài Nguyên, Sư Đoàn 12, Quân Đoàn 3 sau khi nhận lệnh, lập tức lệnh cho các đơn vị phi vũ trang của bộ chỉ huy sư đoàn bắt đầu rút lui từ tối ngày 28. Bản thân sư trưởng và tham mưu trưởng thì đợi bồ đội vũ trang đến, rồi cùng nhau rút lui.
Vào lúc hoàng hôn, các đơn vị của bộ chỉ huy sư đoàn dưới sự chỉ huy của phó trưởng quan, bắt đầu đi trên những con đường núi gập ghềnh. Mây đen theo màn đêm bao phủ khắp không gian, giống như muốn rơi những giọt lệ đồng cảm giành cho chúng tôi. Những giọt mưa lất phất không khách khí đã rơi thẳng vào mặt, đập thẳng vào tấm thân chưa được giữ ấm của chúng tôi. Mưa dai dẳng cộng thêm gió lạnh buốt, càng khiến cho cuộc hành quân của chúng tôi gia tăng thêm hương vị thê lương ủ não.
Phó đội trưởng nhìn thấy linh mục Lôi y phục đơn sơ, trong mưa gió lộ ra có chút co quắp lạnh giá, liền cởi ngay áo mưa của bản thân hướng về linh mục Lôi nói: “Ông Lôi à, cầm lấy oác mưa khoác vào nhé!”. Linh mục Lôi một mặt tạ tuyệt, một mặt vẫn trả lời hài hước: “Lạnh ngoài thân, nhưng ấm trong tim, nhiệt thành ái quốc, đủ để chống lại gió lạnh rồi!”.
“Ông già Lôi thật là phi thường!” phó trưởng quan giơ lên ngón tay cái, hết lời ngợi khen. Con tim của chúng tôi cũng vì đó mà được hâm nóng trở lại.
Đội ngũ tay không tấc sắt chúng tôi đi trong đường núi Dương Trường lầy lội, xòe tay không thấy năm ngón, âm thanh trơn trượt liên tục lặp lại văng vẳng bên tai. Vì để dễ dàng đi lại, có người đã đốt đèn dầu cầm tay, thế là toàn quân chẳng ai bảo ai lần lượt đều bắt chước theo, chỉ trong chốc lát vô số ngọn lửa như đi bộ trên những ngọn đồi phủ đầy hạt mưa và sương đêm, khung cảnh giống như chuỗi ngọc dạ minh châu sáng lấp lánh lượn vòng, lại cũng giống như vô số ngọn lửa ma lập lờ uốn lượn khắp núi Thái Hành. Trong đêm khuya gió lạnh, khung cảnh ma mị ấy lại khiến không khí tăng thêm không ít phần hãi hùng.
Đi được một đoạn, phó trưởng quan cảm thấy tình hình không đúng, để tránh bị quân địch phát hiện mục tiêu, liền truyền lệnh xuống dập tắt mọi ngọn đèn, ngay cả bật lửa hút thuốc lá cũng không cho phép. Lập tức “tầm nhìn” hạ xuống tới 0, nên âm thanh đá sỏi lăn, người ngã ngựa đổ vang lên cũng dồn dập nhiều hơn. Có một vị tu sĩ lớn tuổi, tên Hi Mặc cưỡi trên con ngựa độc nhãn, đi phía sau tôi. Chỉ nghe một trận lạch cạch vang lên, người ngựa đều rơi xuống khe núi. Tôi và phó đội trưởng Bảo Lộc vội vàng theo đó đi xuống, nhìn thấy người anh em Hy Mặc quần áo mặc dù bị xé toạc nhưng toàn thân lại chẳng có vết thương nào, thật là lạ kỳ biết bao. Linh mục Lôi ở phía trên cũng lo lắng hỏi: “Như thế nào rồi!”. Tôi nói: “Ngài ấy sợ hãi hơn là bị tổn thương”. Linh mục Lôi nói lời cuối cùng thế này: “Cảm tạ Thiên Chúa”.
Con ngựa độc nhãn trải qua lần ngã này, mặc dù cũng không có bị thương, nhưng nó ngang dọc cũng chẳng chịu đi. Nhùng nhằng hồi lâu, tốt nhất chỉ đành bỏ lại nó mà thôi. Nhưng nó chở không ít tấm thảm, là những thứ mà những tu sĩ ngày trước sử dụng, để vận chuyển những thương binh chưa khỏi hẳn. Nếu bỏ đi những tấm thảm ấy, thì những tu sĩ ấy khả năng sẽ phải chịu khổ thêm không ít rồi. Chúng tôi trong cái khó ló cái khôn, đem những tấm thảm ấy làm thành những “cuộn tròn”, quàng lên cổ. Ba anh em chúng tôi mỗi người quàng nhiều hơn hai cái, rồi vội vã lên đường.
Từ trấn Cây Hòe tới nhà ga Lũng Địa Trình Gia, phải trèo qua một ngọn núi rất cao. Việc hành quân trong đêm trên con đường núi sình lầy, khiến cho tốc độ hành quân cũng không được nhanh. Chúng tôi cũng không biết đã đi được bao nhiêu km rồi, nhưng khi tới Lũng Địa Trình Gia đã là quá hai giờ đêm rồi. Bởi vì mệnh lệnh của sư trưởng là ở đây tập kết đợi lệnh, linh mục Lôi và chúng tu sĩ liền tìm một căn nhà vẫn chưa bị bom phá nát, trải xuống thêm một chút cỏ khô, lập tức đi vào giấc mộng, vì mệt mỏi quá nhiều rồi.
Tôi chợp mắt một hồi, liền cảm thấy không khí ở cái thôn nhỏ này cô tịch đáng sợ làm sao, những tạp âm của cuộc hành quân một chút cũng không còn lại gì. Trong tim tôi xuất hiện một chút hoài nghi. Tôi liền chạy ra đường nghe ngóng một lượt. Kỳ quái! Ngoài hơn mười nhân viên bàn giấy của đội cứu thương đang ngủ say ở đây, trong thôn ngoài thôn, ngay cả hình bóng cũng nhìn không thấy.
Giờ này, không chỉ mưa đã ngừng, mây đã tan, mà phương đông cũng đã lộ ra vài tia ánh mặt trời. Tôi nhờ ánh sáng này mà nhìn thấy trên biển quảng cáo của nhà ga, trong góc tường giao nhau, khắp nơi đều có chữ viết bằng phấn, là chữ của những tu sĩ chuyển thương binh ngày trước để lại. Chữ được viết là: “Chúng anh em, hãy nhanh đi về phía tây!”; “Bảo Lộc, đừng dừng lại, mau đi về phía tây!”
Tôi nhìn thấy những chữ này, liền toát ra một thân mồ hôi lạnh, bàng hoàng chạy trở về, lớn tiếng hô hoán linh mục Lôi cũng như chúng tu sĩ trở dậy, và báo cáo thực tình. Họ từ trong mộng sực tỉnh, rụi tới rui lui đôi mắt, chẳng nói lời nào dọc theo hướng tây của con đường sắt chạy như bay.
CHẾT BÊN ĐƯỜNG
Sáng ngày 29, linh mục Lôi và hơn mười người cùng nhau vội vã từ Lũng Địa Trình Giachạy như bay về hướng tây. Chẳng nghĩ tới, những người đi trước qua nơi đây đã gặp phải những sự quấy phá dữ dội như thế nào; nhưng những đồ vật họ bỏ lại trên đường hoàn toàn có thể chứng minh sự quấy phá này. Chúng tôi vì để giảm nhẹ gánh nặng trên người, liền thuận tay dắt hai con lừa nhỏ bị bỏ lại, để bọn chúng tải những vật phẩm quan trọng, như áo lễ, thảm, bột mì,…
Đi được một giờ, thì chúng tôi cũng dần dần bắt kịp những đơn vị khác. Bọn họ đều kinh ngạc hỏi: “Lôi lão tiên sinh! các người làm sao mà tụt lại phía sau vậy? Thật nguy hiểm mà!” linh mục Lôi cũng chẳng có trả lời, cúi đầu tăng tốc nhịp chân tiến về phía trước.
Hai con lừa nhỏ khó trách bị người ta bỏ lại, nó đi còn chậm hơn cả bò. Chúng tôi có ý muốn ném bỏ nó lại, nhưng lại chẳng nỡ bỏ đồ đạc nó tải, liền nhẫn nại bước chậm theo nó tiến về phía trước. Vì vậy, chúng tôi cách linh mục Lôi càng lúc càng xa. Gần trưa, sư trưởng Đường và tham mưu trưởng cưỡi ngựa từ phía sau bắt kịp chúng tôi. Vừa thấy liền hỏi chúng tôi linh mục Lôi đang ở đâu, tôi nói: “Ngài ấy đi đằng trước”. Sư Trưởng phân phó chúng tôi vất lại hai con lừa nhỏ, mau mau đi về phía trước. Tôi và anh đầu bếp đã do dự giây lát, nhưng vẫn không nguyện ý vất đi những vật phẩm quan trọng, với lại vì cũng chẳng hiểu sự nghiêm trọng của thời cuộc, nên vẫn như cũ theo con lừa nhỏ chậm chạp tiến về phía trước.
Buổi trưa, đi tới thôn “Loạn Lạc?”, là một thôn trang tương đối lớn, và cũng là một trạm xe lửa. Nhưng người và xe ở trạm đều chẳng thấy đâu, khung cảnh vạn phần lộn xộn. Vừa vào thôn, liền thấy có một tu sĩ đứng ở cửa đợi chúng tôi. Anh ấy kêu chúng tôi đến chỗ linh mục Lôi ăn trưa, và nói sư trưởng cũng đang nghỉ ngơi ở đó.
Linh mục Lôi nhìn thấy tôi đến, ngoài sự vui mừng thì cũng an ủi tôi vài lời, rồi kêu tôi nhanh đi nghỉ ngơi. Tu sĩ Bảo Lộc đang nướng bánh nhiệt tình phục vụ mọi người. Tôi theo bản năng nhớ lại biểu tình vừa rồi của Sư Trưởng, lo lắng không thôi đối với thời cuộc, liển đi tìm Sư Trưởng hỏi chuyện. Sư Trưởng nhìn thấy tôi, trước tiên hỏi tới linh mục Lôi ăn cơm chưa. Tôi theo đó mà trả lời, rằng cơm vẫn chưa nấu xong. Sư Trưởng nói: “Vậy đừng ăn cơm nữa, mau dậy đi thôi!”
Khi tôi quay người lại, quả nhiên nhìn thấy các đơn vị khác đã lục đục tiếp tục tây tiến. Tôi vội gọi linh mục Lôi dậy, giục ngài ấy đi mau. Ngài ấy chẳng để ý đến tôi, lắc lắc thân rồi tiếp tục ngủ. Tu sĩ Tại Đức nghe nói lại phải xuất phát cũng lớn tiếng kêu bụng đau gối mỏi, chết cũng không chịu đi.
Ước chừng khoảng mười phút, tôi phát hiện đặc vụ của bộ chỉ huy sư đoàn và lính vũ trang công binh, phân theo bốn hướng của thôn với nhịp bước khẩn trương tiến về phía trước, giống như đang có biến sự gì đó đã phát sinh vậy.
Nói thì lâu, nhưng lúc đó sự tình diễn ra rất nhanh, đột nhiên nghe một hồi còi hiệu vang lên, theo liền sau chính là những tiếng hô “Giết” không ngừng. Thế là tiếng súng máy, súng trường, tiếng lựu đạn, vang thành một dải. Trên đường, người hô ngựa hí chạy loạn khắp nơi. Những trưởng quan tay cầm súng, không cho phép quân vũ trang chạy về phía trước, hối thúc mọi người quay lại hoặc lên núi, yểm hộ cho mọi người.
Linh mục Lôi thì sao? Ngài ấy từ trong mộng tỉnh lại, mặc vào áo dòng, xỏ dép vào, không hoảng không vội đeo tay nải, mặt có chút nhợt nhạt, nhưng chỉ nói một lời “Đi”, liền theo đó mà đi. Vị tu sĩ lớn tiếng la “Có chết cũng không đi” thì đang chạy rất nhanh ở phía trước linh mục Lôi.
Phó đội trưởng Bảo Lộc lúc này rất bình tĩnh: Anh ta vừa nhai bánh nướng vừa dọn dẹp đồ đạc. Anh đầu bếp cũng đánh con lừa, kéo mạnh nó theo anh. Nhưng bây giờ con vật này kiên trì vô cùng, có đánh thế nào cũng chẳng chịu đi. Tu sĩ Bảo Lộc nói với đầu bếp: “Đừng dắt lừa, nhanh chạy nào!”. Anh ta cảm thấy như được đại xá, chạy nhanh như bay theo linh mục Lôi.
Lần này, tiếng súng đạn lại càng gần hơn. Tôi cũng chẳng phân biệt được đâu là tiếng súng của địch, đâu là tiếng súng của quân ta. Bất chợt có tiếng súng trường như vụt qua bên tai, tôi lúc đó cảm thấy rất vô vọng, thế là ngồi thụp xuống, nói với tu sĩ Bảo Lộc: “Tôi thật sự không thể đi được rồi, chết ở đây vậy!”
“Hei! Anh cũng đến làm như này này!” tu sĩ Bảo Lộc nói, kéo tôi dậy, và giúp tôi chạy.
MẤT TIÊU “LINH HỒN” RỒI
Buổi trưa ngày 29 tháng 10 năm 26 Dân Quốc, chúng tôi một mạch đã đi 18h đường núi. Khi dừng lại ở thôn Loạn Lạc nghỉ ngơi, thì một toán kỵ binh địch đã bắt kịp chúng tôi; một hàng súng máy, mấy tiếng hô giết, đã làm kinh loạn toàn bộ Sư Đoàn. Ngoài những quân nhân vũ trang, những người còn lại đều nhốn nháo cuồng loạn thi nhau chạy về phía tây.
Khi tiếng súng cuồng loạn từ bốn phương tám hướng bay qua đỉnh đầu của chúng tôi. Tôi đã một phen thất vọng, rệu rã ngồi thụp xuống chờ chết. May mà tu sĩ Bảo Lộc kéo tôi một đoạn, tôi mới quyết định tiếp tục vùng dậy chạy thoát thân. Tu sĩ Bảo Lộc can đảm cẩn trọng ở bên bở sinh tử vẫn muốn gỡ đồ lễ và áo lễ từ trên lưng lừa xuống, để mang theo chạy trốn. Lúc ấy tôi mới quay lại kéo anh ta một đoạn, và nói với anh ta: “Mạng sống còn khó bảo toàn, muốn áo lễ làm chi?” Nói đoạn hai người cùng bất chấp mưa bom bão đạn chạy như bay đuổi theo linh mục Lôi.
Ước chừng chạy khoảng mười lăm phút, thì đuổi kịp linh mục Lôi. Ngài ấy nhìn thấy chúng tôi tới, liền hỏi tu sĩ Bảo Lộc:
— Người của chúng ta đều an toàn phải không?
— Người đều chạy khỏi nguy hiểm, nhưng đồ vật mất đi không ít, áo lễ cũng bị bỏ lại.
— Làm sao? Ném áo lễ lại á?
— “Là tôi bỏ lại”. Tôi thay tu sĩ Bảo Lộc giải thích cho linh mục Lôi.
— Con làm sao lại làm cái việc hồ đồ như vậy?
— “Mạng còn khó giữ, muốn áo lễ tác dụng gì chứ?” tôi vẫn như cũ nói theo lối như thế.
— Con phải biết, Thánh Lễ là linh hồn của toàn đội chúng ta. Con nghĩ đi hậu quả của việc mất đi áo lễ là gì?
Tôi cúi đầu trầm mặc, cam chịu linh mục Lôi trách mắng một trận nặng nề.
Sau đó, năm ngày liền, linh mục Lôi không thể cử hành Thánh Lễ. Mỗi buổi sáng, vừa thấy tôi là liền quở trách: “Con quăng mất tiêu linh hồn của chúng ta rồi!”.
Sau đó năm ngày, chúng tôi hành quân tới Du Thứ, đã mượn giám mục nơi đây một bộ áo lễ và đồ lễ, nhờ đó mới có thể tháo gỡ đại gánh nặng giam cầm tinh thần của tôi mấy ngày hôm nay.
CÓ LINH MỤC LÔI Ở ĐÂY, KHÔNG SỢ CHẾT
Nếu nói “Thánh Lễ là linh hồn của đội cứu thương chúng tôi”, linh mục Lôi chính là cửa sổ của linh hồn đó. Mặc dù đã năm ngày không thể tham dự Thánh Lễ, nhưng có linh mục Lôi ở đây, chúng tôi chẳng có hoàn toàn mất đi trọng tâm và sức sống. Một câu chuyện rất thú vị có thể nói rõ điểm này.
Khi chúng tôi như đàn chim sợ cung, điên cuồng chạy theo hướng tây thoát khỏi thôn Loạn Lạc. Có một thanh niên ở đội cứu thương, tuổi chừng 17, tên là Quách Điện Nguyên, chàng ta mặc dù sức khỏe tràn trề, nhịp chân lại nhanh, nhưng lại không giống như những người khác, nhanh chân chạy trước. Chàng ta theo sát bên cạnh linh mục Lôi nửa bước không rời. Hơn nữa, chàng ta vừa chạy còn vừa nói: “Linh mục Lôi, ngài chạy hướng nào, con chạy theo hướng đó”. Rồi lại còn nói với người bên cạnh: “Có linh mục Lôi ở đây, chúng ta chết không nổi; đương nhiên có nguy hiểm đến tính mạng, chúng ta cũng không sợ chết”.
Kỳ thực, không chỉ chàng ta có cảm tình như thế, tất cả giáo dân và chúng tu sĩ ở tiền tuyến đều cảm thấy linh mục Lôi là trung tâm của đội cứu thương, là sức mạnh tinh thần của chúng tôi. Đặc biệt khi ở trong hiểm nguy, mọi người đều không hẹn mà gặp cùng đều hướng ánh mắt về linh mục Lôi.
Khi kỵ binh địch tấn công chúng tôi, máy bay địch cũng bay tới hiệp trợ, quần thảo trên không nhiều lần hòng quấy nhiễu chúng tôi. Mỗi lần phát hiện máy bay địch, tướng chỉ huy liền lệnh cho chúng tôi nằm xuống ẩn nấp.
Có một vị tu sĩ già trạc tuổi của linh mục Lôi, khi tiếng còi hiệu vang lên, ngài ấy không có ở cùng linh mục Lôi. Không hiểu là do tuổi cao tai lãng, hay là mong muốn được ở gần linh mục Lôi, ngài ấy không màng cảnh báo, vẫn theo hướng linh mục Lôi cắm đầu mà chạy. Chỉ huy vừa gào thét quân lệnh “nằm xuống”, vừa giương cao súng, muốn hy sinh vị tu sĩ già. May mà người bên cạnh viên sĩ quan này ngăn lại, đồng thời tôi cũng vội vàng hô vị tu sĩ già nằm xuống, mới may mắn thoát nạn.
Từ thôn Loạn Lạc tới Dương Tuyền, ước chừng khoảng 40 km, chúng tôi cứ chạy chạy trốn trốn như thế, cuối cùng thì cũng đã đi xong hành trình gian khổ và nguy hiểm ấy, để đến nơi an toàn. Khi sắp tới nhà ga Dương Tuyền, tiếng súng vừa vặn cũng đã rời bỏ chúng tôi, máy bay địch cũng đã không còn quần thảo nữa, mọi người dường như cũng đã hoàn hồn và bắt đầu bình tĩnh trở lại. Có một vị sĩ quan nói đùa với linh mục Lôi: “Lôi tiên sinh, ngài có sợ không vậy?”
Linh mục Lôi hài hước đáp lại: “Đại pháo của máy bay địch, tôi một chút cũng không cảm thấy sợ hãi, nhưng các anh chạy nhanh quá, tôi đuổi theo không kịp, tâm lý lại có chút hoang mang đấy!”
LINH MỤC LÔI BỊ THƯƠNG RỒI!
Trên đường hành quân kinh hoàng lần này, chúng tôi đã đi qua vài thôn trang nhỏ. Khi đến một thôn trang nhỏ kia, tiếng súng vừa vặn cũng đã dừng. Thế là, mọi người cùng dừng lại, và ngồi xuống nghỉ ngơi.
Linh mục Lôi đã tìm một hòn đá làm ghế, ngồi lên trên để chợp mắt. Có một binh sĩ vũ trang đầy đủ mới đánh lui quân địch trở về, lưỡi lê sáng bóng vẫn còn cắm trên đầu súng. Anh ta đi ở phía bên trên chỗ linh mục lôi đang chợp mắt, nhưng không may bất cẩn trượt chân té lăn xuống dưới – thôn trang này vốn tọa lạc trên một sườn núi, vì thế, bằng một cách nào đó, lưỡi lê trên đầu súng của anh ta hoàn hảo găm đúng vào cái đầu trọc của linh mục Lôi, nhất thời máu tươi tung tóe. Những tu sĩ ở bên cạnh lập tức mở túi cứu thương, lấy thuốc cầm máu đắp cho linh mục Lôi, và dùng băng gạc cuốn lại.
Vị binh sĩ ngộ thương linh mục Lôi cứ đứng trân trân, mặt mày tái mét, giống như tội phạm chờ đợi xét xử vậy. Linh mục Lôi vẫn là nụ cười đó, mặt mày vui vẻ nói với anh ta: “Đồng chí à, xin yên tâm, đó không phải lỗi của anh. Hơn nữa vết thương cũng không nặng, chỉ là trầy xước tý da mà thôi!”.
Nghỉ ngơi một lúc, linh mục Lôi vẫn điềm nhiên như không cùng mọi người gấp rút hành quân. Người không biết nội tình thấy đầu linh mục Lôi cuốn băng, cho rằng ngài ấy bị thương trong loạn lạc hỗn chiến, thế là một truyền mười, mười truyền trăm, mọi người đều đang truyền tai nhau: “Linh mục Lôi bị thương rồi!”; “Lôi lão đội trưởng bị thương rồi!”; “Người ngoại quốc đã đổ máu cho người Trung Quốc rồi!” … Tin tức này rất nhanh đã lan truyền khắp cả Sư Đoàn.
Chúng tôi còn cách Dương Tuyền khoảng một hai cây số nữa, nhìn từ xa tu sĩ Phi Lộc đã vội vội vàng vàng chạy tới đón chúng tôi. Anh ấy là người đã chuyển thương binh đến Dương Tuyền từ hai ngày trước. Vừa nhìn thấy linh mục Lôi, Anh ấy trong mắt đã ngậm đầy nước mắt nói: “Trong quân đội ở Dương Tuyền truyền tai nhau là cha bị trọng thương, thực sự dọa chết chúng con rồi, con thay anh em đặc biệt đến xem cha!”. Linh mục Lôi mỉm cười, nói rõ ngọn nguồn của câu chuyện. Tu sĩ Phi Lộc cũng mỉm cười xóa tan mọi âu lo hãi sợ.
Sau khi tới Dương Tuyền, sư trưởng Đường cũng đích thân đến hỏi thăm, khiến linh mục Lôi cũng cảm thất rất ái ngại. Linh mục Lôi sợ sư trưởng truy cứu binh sĩ ngộ thương ngài, nên cũng chẳng có tỏ lộ bí mật này cho ông ta biết.
ĐỐT BẢN THÂN CHIẾU SÁNG NGƯỜI KHÁC
Chúng tôi bắt đầu tháo lui từ lúc hoàng hôn của ngày 28, đến khoảng 7h tối ngày 29 thì đã tới trạm xe lửa Dương Tuyền. Trong khoảng hơn 30h này, chúng tôi ngoài hai ba giờ chợp mắt ở Lũng Địa Trình Gia, thời gian còn lại đều là “Hành quân” và “Hành quân”. Hơn nữa, đó còn là cuộc hành quân tháo lui trong không khí hãi hùng, nhiều lúc còn phải cuống cuống chạy bộ để thoát thân. Đám thanh niên hai mươi mấy tuổi đầu chúng tôi đều cảm thấy có chút “Chịu không nổi”; vậy mà khi đó, linh mục Lôi đã ngoài 60, thân lại còn đang mang bệnh thấp khớp, thì sẽ mệt mỏi cỡ nào đây, chỉ cần nghĩ thôi cũng đều có thể tỏ.
Tới Dương Tuyền, những tu sĩ và đội cứu thương đến trước hai ngày đã chuẩn bị sẵn cơm tối cho chúng tôi, muốn để những khách tha phương chúng tôi tẩy bụi trần; đúng hơn phải nói là để an ủi chúng tôi thoát khỏi miệng cửa tử. Linh mục Lôi lại được gặp lại những đứa trẻ của ngài ấy. Đương nhiên ngài ấy rất vui mừng, nhưng chỉ vì quá mệt mỏi, nên ngài ấy cũng chỉ vui vẻ trò chuyện chốc lát, ngay cả cơm cũng không ăn mà lập tức đi ngủ. Ngài ấy cũng không quên dặn dò chúng tôi: bất cứ ai đến tìm gặp ngài, thì thay ngài ấy từ chối khéo.
Linh mục Lôi đang muốn nghỉ ngơi, thì sư trưởng Đường phái người đến mời ngài ấy gặp gỡ nói chuyện, ngài ấy nào đâu có thể chối từ. Khi từ phòng của sư trưởng trở về, đang muốn vào giấc, thì có một vị tự xưng là đại đội trưởng Vương Điện Hiên cầu kiến. Vì anh ta mặc thường phục, và cũng bởi linh mục Lôi không có dặn trước, nên chúng tu sĩ cũng lấn cấn không muốn đáp ứng yêu cầu của anh ta. Vị đội trưởng “Lai lịch” không tệ này cứ một mực muốn lập tức được gặp linh mục Lôi; hơn nữa còn nói, nếu linh mục Lôi biết tên người muốn gặp ngài ấy là ai, nhất định linh mục Lôi sẽ rất vui mừng. Quả nhiên linh mục Lôi vừa nghe đến tên của khách thăm, thì một chút tinh thần còn lại liền trỗi dậy, lập tức ra và chào hỏi anh ta, đồng thời dẫn anh ta vào phòng trò chuyện rất chân tình. Nói những chuyện vừa qua và cũng nói tới những kế hoạch kháng Nhật sắp tới.
Có một vị tu sĩ đi vào, nhắc nhở linh mục Lôi “Mang trà cho khách”, ngài ấy ghé bên tai vị tu sĩ nói: “chúng ta cần phải đốt cháy bản thân, để chiếu sáng người khác”.
Cơm tối vừa xong, mọi người đang hưng phấn trò chuyện: tối nay có thể ngủ ngon, có thể rũ bỏ những mệt mỏi còn đọng lại trong hai ngày qua. Đột nhiên, phó trưởng quan truyền tới lệnh của sư trưởng: mười một giờ đêm nay tập hợp, xuất phát tới Cần Tuyền. Mọi người vừa nghe xong, ai nấy cũng đều ủ rũ, những tiếng “Haizaa…” không ngừng vang bên tai. Nhưng quân lệnh như sơn, không thể không xuất phất, nên chúng tôi chỉ đành “Vò đầu bứt trán” thu dọn hành trang, chuẩn bị lên đường.
Tôi lập tức đem lệnh xuất phát nói với linh mục Lôi, ngài ấy mặc dù rất coi trọng việc phục tùng trong quân, nhưng cũng dấu không nổi nét mặt khó chịu theo bản năng lướt qua trên khuôn mặt. Vương Điện Hiên lúc đó vẫn còn ở cùng linh mục Lôi. Anh ta vừa nghe nói phải xuất phát, lập tức nói với linh mục Lôi: “Để chúng tu sĩ và mọi người xuất phát trước, lão gia người ở lại đây nghỉ một đêm đi, sáng sớm ngày mai tôi phái xe đến, đón ngài tới Cần Tuyền, chắc chắn sẽ không đến đích muộn hơn mọi người đâu!”. Linh mục Lôi ban đầu không đồng ý, nhưng mọi người ba hồi bảy lượt góp ý thêm vào, ngài ấy mới đặng chẳng đừng đáp ứng lời đề nghị ấy.
Đêm đã khuya, kim giờ đã chỉ 11h, chúng tôi kéo lê những thân xác mệt mỏi, nhấc những bước chân nặng như chì, giống như một đám say rượu ngả nghiêng lảo đảo trong trời đêm, mò mẫm bước đi trên đường.
Vương Điện Hiên cũng phải nói thật sự là thần thông. Xe lửa lúc đó đã không còn vận chuyển khách nữa, chỉ có thể do quân nhân điều động mà thôi. Vậy mà, Sáng sớm ngày thứ hai anh ta đã phái xe lửa đến đón, và đưa linh mục Lôi thẳng tới Cần Tuyền, hội họp với chúng tôi.
NGỦ LIỀN HAI MƯƠI GIỜ
Đêm ngày 29 tháng 10, chúng tôi xuất phát từ Dương Tuyền, lê tấm thân mệt mỏi, vừa đi vừa ngủ gật, vừa thi nhau ai té nhiều hơn. Buổi sáng ngàhoom sau mới miễn cưỡng tới cái đích lâm thời, chính là Cần Tuyền.
Trong quân truyền nhau mệnh lệnh của bộ tổng tư lệnh cho Quân Đoàn 12 gấp rút tới Du Thứ, hiệp trợ thành Thái Nguyên, tỉnh lị Sơn Tây phòng thủ. Bởi vì, địch quân bắc lộ đã từ Nhạn Môn Quan tiến vào đánh thốc Thái Nguyên. Danh tướng kháng Nhật, Phó Tát Nghĩa đang ở đó bày trận chờ địch.
Hai lữ đoàn kị binh của Sư Đoàn 12 lúc đó vẫn đang bị vây khốn ở đất Tân Quan chưa thể tháo lui. Sư trưởng không thể tay không chi viện cho Thái Nguyên, nên quyết định tạm thời lưu lại Cần Tuyền, đợi chờ bộ đội vũ trang đến. Chúng tôi nghe đến hai chữ “Ở lại”, thì giống như phạm nhân được ơn đại xá vậy, mừng vui la hét và nhảy múa cuồng loạn. Chúng tôi sau khi sắp xếp và dọn dẹp chỗ nghỉ, đại sự đầu tiên chính là đi ngủ.
Cần Tuyền cũng là một trang thôn dựa vào núi. Rất nhiều người dân ở đây đều đào hang cư trú. ở trong hang, đông ấm hè mát, cực kỳ dễ chịu thoải mái, đặc biệt khi chiến tranh tràn đến, ở trong hang có lẽ là phươmg thức an toàn nhất để tránh né sự bắn phá không ngừng của máy bay địch. Vậy nên, các đơn vị bộ chỉ huy sư đoàn chúng tôi, phần lớn cũng đều tìm hang động dựng trại nghỉ ngơi. Ước chừng khoảng tầm 10h, Công việc xắp xếp dọn dẹp của chúng tôi cũng kể như là ổn thỏa, nhưng máy bay tiêm kích của địch lại không mời mà đến quần thảo trên đầu chúng tôi. Chúng tôi từ trong cửa hang ngó lên trời, tôi cười nói với linh mục Lôi: “Cha coi, máy bay địch đã thả xuống 3 trái bom phải không!” – “Không! Là 9 trái” linh mục Lôi đáp,
Lời vẫn chưa dứt, 9 trái bom đã liên tiếp va chạm với mặt đất và nổ vang trời. Chúng tôi ngồi ở trong hang, vững như núi Thái quan sát những gì đang xảy ra. Có không ít tu sĩ và thành viên của đội cứu thương đã đi vào mộng đẹp, căn bản là đều không biết có máy bay địch đến oanh tạc. Bọn họ chẳng màng ăn uống, mà ngủ liền một mạch hơn 20h, mới hồi phục tinh thần và thể lực đã mất đi.
Chúng tôi ở Cần Tuyền ba ngày, máy bay địch ngày nào cũng đến, có khi còn đến hai ba lần trong ngày. Nhu yếu phẩm ở gần trạm xe bị bom phá hoại nặng nề. Xế chiều một buổi nọ, một xe đạn dược đã bị trúng bom, chỉ nhìn cột lửa bay lên, kèm theo những âm thanh trấn động trời đất, khiến cho những người chứng kiến một phen khiếp sợ không ít.
Sau mỗi lần không kích của địch, linh mục Lôi luôn dắt chúng tu sĩ và những thành viên của đội cứu thương tới khắp nơi tìm kiếm và giải cứu các quân nhân bị thương. Trong ba ngày nghỉ ngơi ở Cần Tuyền, chúng tôi cũng có thể nói là đã làm được kha khá công việc rồi.
Ba ngày qua đi, bộ đội vũ trang vẫn chưa thấy tới, sư trưởng Đường nôn nóng như kim châm lửa đốt, khiến mặt mày luôn trong tình trạng ủ rũ khó coi. Ngài ấy cảm thấy thực sự không thể đợi thêm nữa rồi, nên liền hạ lệnh cho các đơn vị của sư đoàn xuất phát.
Ngày 3 tháng 11, chúng tôi đóng trại ở một thôn trang nhỏ cách Du Thứ khoảng 20 cây số. Tối muộn ngày hôm đó, hai lữ đoàn kỵ binh mới nhanh chóng hội quân với chúng tôi. Sự việc ấy khiến sư trưởng Đường rất vui mừng, liền hạ lệnh sáng ngày mai tiếp tục lên đường, mau chóng đến chi viện cho Thái Nguyên.
TRÔNG GÀ HÓA QUỐC
Sáng ngày 4 tháng 11, toàn thể quan binh Sư Đoàn 12 thần tốc tiến về Thái Nguyên, gấp rút tiếp viện quân địa phương phòng thủ giữ thành. Trên đường hành quân, chúng tôi có đi ngang qua Du Thứ, nhưng không có dừng lại. Linh mục Lôi vì để tìm áo lễ và đồ lễ mới, đã dắt theo hai tu sĩ tới ngôi thánh đường trong nội thành Du Thứ; nhưng vì người phụ trách thánh đường không có ở đó, nên họ liền tới ngôi thánh đường gần đó ở làng Đậu Hũ, mới mượn được một ít áo lễ và đồ lễ. Do đó, linh mục Lôi đã tạm thời xa cách chúng tôi.
Lại nói, khi bộ chỉ huy sư đoàn hành quân tới Trạm Xe Lửa Minh Lý, cách Thái Nguyên không xa, thì trời cũng đã tối, liền dừng lại đóng quân ở đó. Các đơn vị bồ đội vũ trang khác cũng được lệnh đóng quân trong các thôn làng gần đó. Khi chúng tôi đang ăn cơm tối, một chiếc máy bay địch đột nhiên bay tới, thả xuống ba quả bom rồi bay đi. Việc máy bay địch đến oanh tạc, đã là việc quen quá hóa thường, nên mọi người ai cũng đều chẳng lưu tâm. Nhưng tôi cảm thấy tình hình có chút lạ lạ, bởi quân địch rất hiếm khi tập kích vào ban đêm, nên tôi liền tới chỗ phó quan để thăm dò động tĩnh. Phó quan nói với tôi đêm nay nhất định nghỉ ngơi tại đây, xin truyền đạt cho mọi người an tâm nghỉ ngơi.
Ước chừng qua khoảng 1h, mọi người đang chìm sâu trong giấc ngủ, đột nhiên tiếng súng ác liệt vang lên ở phía ngoài thôn, khiến những “Con chim sợ cung” chúng tôi lần lượt bật dậy vội vàng sắp xếp hành trang, chuẩn bị di chuyển. Lưu phó quan kêu mọi người đừng manh động, anh ta bảo đó là quân của chúng ta đang tới, vì bọn họ quên mất “Khẩu lệnh”, nên đã phát sinh hiểu lầm với lính gác…. Lời của Lưu phó quan còn chưa dứt, thì “têng! têng! têng!” âm thanh của ba trái bom lớn va chạm với mặt đất liên tiếp làm rung chuyển không gian. Phó quan cũng chẳng giải thích gì thêm mà quay người chạy đi đâu đó. Thế là toàn thôn như ong vỡ tổ, quân dân tùy sức chạy đông chạy tây, Sư Trưởng cũng không biết chạy đi đâu, linh mục Lôi cũng không ở đây, chúng tôi cũng đều thục mạng chạy về phía trước, mà chẳng hề đợi mệnh lệnh ban xuống.
Bản thân tôi vừa theo mọi người chạy về phía nam, vừa phái hai tu sĩ thông thuộc nơi này, nhanh chân chạy tới làng Đậu Hũ thông báo cho linh mục Lôi phải tùy cơ ứng biến, tạm thời đừng có bắc tiến. Khi chúng tôi đang chạy thục mạng, một quả bom lớn bất ngờ lại rơi ngay giữa chúng tôi, mọi người chẳng ai bảo ai, đều gia tăng hết tốc lực, chẳng màng sống chết, chỉ biết cắm đầu cắm cổ chạy và chạy. Trong đêm tối, tôi phát hiện người truyền tin của đội cứu thương, một thiếu niên 16 tuổi, trên thân đang choàng một chiếc chăn, khi chạy xem ra rất là bất tiện. Thấy thế, Tôi ra hiệu cho cậu ta cuộn chiếc chăn lại, đeo sau người để tiện bề trốn chạy; nhưng cậu ta lại ngại ngùng nói với tôi, ngoài chiếc chăn ra, trên thân một sợi chỉ cũng chẳng có!
Khi Mọi người đang theo đường chính chạy về phía nam, đột nhiên người trước mặt ngoảnh đầu chạy quay lại, đồng thời báo cho mọi người, phía trước có xe tăng địch. Thông tin vừa truyền tới thì chỉ nghe một tiếng “Uỳnh” vang lên, mọi người chúng tôi theo quán tính liền bổ nhào ra tứ phía, chẳng quan tâm dưới chân là nước, là bùn hay đồng ruộng,… chỉ biết nhắm thẳng về phái trước, cắm đầu cắm cổ chạy thoát thân. Giờ phút ấy, bên tai chỉ còn nghe tiếng cây cỏ kêu rào rào mà thôi.
Chúng tôi chạy vòng vòng trên đồng hoang, chạy không biết bao quãng lòng vòng, nhưng sáng sớm ngày sau thì đã may mắn tới được Du Thứ. Sau này mới biết, “Xe tăng địch” hôm đó, vốn dĩ là xe quân nhu lạc hậu của ta. Bởi vì không biết bộ chỉ huy sư đoàn đang hỗn loạn chạy tứ tán, nên đâm đầu tiến về Thái Nguyên cấp dưỡng cho quân. Tôi đây vì thế mà lĩnh hội được mùi vị câu danh ngôn của người xưa: “Sợ bóng sợ gió, thần hồn nát thần tính, cây cỏ cũng tưởng là binh giặc”.
CÙNG ĐƯỜNG ẮT CÓ LỐI THOÁT
Ngày 4 tháng 11 năm 26 Dân Quốc, đội cứu thương chúng tôi, Sư Đoàn 12, Quân Đoàn 3, phụng lệnh chi viện Thái Nguyên. Khi Chúng tôi mới di chuyển tới thôn Minh Lý cách Thành Thái nguyên 25 dặm về phía nam, thì quân địch đã nhanh chân đến trước bao vây thành Thái Nguyên.
Đêm đó, Mấy tiếng pháo lớn oanh kích khiến chúng tôi bỏ chạy tứ tán khỏi Trạm Xe Minh Lý. Hơn hai mươi người cùng chạy với chúng tôi, trong đó có 5 tu sĩ và mười mấy giáo dân, đã chạy lòng vòng trong đồng hoang, đã chạy qua rất nhiều con đường loằng ngoằng vô ích, nên tới nửa đêm hôm sau mới có thể đến được Du Thứ. Ở đây có sự hiện diện của quân phòng thủ, hơn nữa, tiếng pháo kích cũng đã cách rất xa rồi, nên chúng tôi cũng dần dần rời ra sự hốt hoảng sợ hãi và dần dần bình tâm trở lại.
Nhưng, bây giờ đi đâu? Chúng tôi đã mở một cuộc họp lâm thời tại Du Thứ. Có người chủ trương ngồi xe lửa qua sông Hoàng Hà, đi thẳng đến Đồng Quan, và hướng thẳng đại hậu phương mà đi. Tôi cho rằng linh mục Lôi là người rất trọng trách nhiệm và tha thiết cứu quốc, nên tuyệt nhiên ngài ấy sẽ không tới đại hậu phương. Ngài ấy khả năng vẫn đang ở đâu đó gần Du Thứ, Sư Trưởng khả năng cũng đang ở đó. Vậy nên, tôi chủ trương tạm thời lưu lại Du Thứ thăm dò tung tích của Sư Trưởng và linh mục Lôi. Nhưng phần lớn giáo dân đều sợ vỡ mật, cho rằng chủ trương của tôi là quá mạo hiểm, nên đều không đồng ý. Qua mấy lần thảo luận, cuối cùng quyết định một phương án dung hòa: đi bộ theo đường sắt tiến về Hồng Động, bởi vì Sư Trưởng đã từng biểu thị toàn bộ quan binh của Sư Đoàn sẽ đến Hồng Động để đổi lãnh chăn mền quần áo. Thế là chúng tôi lập tức lên đường nam tiến.
Chúng tôi trên đường đi, bất kể gặp quan binh thất lạc nào, đều ra sức thăm hỏi bọn họ về vị trí của bộ chỉ huy sư đoàn. Nhưng câu trả lời đều là mù tịt không hay. Thậm chí linh mục Lôi ở chỗ nào, bọn họ cũng lại càng chẳng nói nổi nên lời. Chúng tôi vừa đi vừa thở ngắn than dài, tinh thần trống rỗng như mất đi một thứ gì đó. Mọi người đều cảm thấy tìm không ra bộ chỉ huy sư đoàn là chuyện nhỏ, nhưng linh mục Lôi không ở giữa bọn họ thì lại là chuyện lớn vậy, bởi vì linh mục Lôi chính là linh hồn của đội cứu thương vậy.
Đi ngang qua thành Thái Cốc, nghe nói cách nơi đây không xa, có một ngôi làng tên là Cửu Cấp, ở đó có một ngôi thánh đường tương đối lớn. Có người nhắc nhở, nói không chừng linh mục Lôi đang đợi chúng ta ở đó. Lời này khiến tinh thần của chúng tôi gia tăng gấp bội, liền quên đi hết những mệt nhọc mà gia tăng tốc độ, trông hướng “Hy vọng” mà đi.
Khi chúng tôi cách thôn Cửu Cấp khoảng chừng trăm thước, thì xa xa đã nhìn thấy người đứng ở cổng thôn vẫy tay chào chúng tôi, và vui mừng nói lớn: “Tu sĩ! Tu sĩ! Linh mục Lôi đợi mọi người trong ngôi thánh đường của thôn!”
Những kẻ liều mạng chúng tôi nghe những lời ấy, liền vui mừng chẳng dám tin vào lỗ tai mình, tấm thân không thể tự chủ mà nhảy cẫng lên. Đặc biệt, tim của tôi như rơi ra tảng đá lớn, lập tức yên ổn trở lại.
Khi chúng tôi tiến vào thành đường, khi nhìn thấy linh mục Lôi, bốn chữ “Tuyệt xứ phùng sinh”, tức cùng đường lại có lối thoát, cũng không đủ để hình dung niềm vui trong tim chúng tôi.
TRANH NHAU XƯNG TỘI
Vốn dĩ Sau khi chúng tôi bàng hoàng chạy khỏi Minh Lý, tôi đã xin tu sĩ Lữ Bân, một tu sĩ bước chân như bay không biết mỏi mệt, nhanh chóng đi đến Đậu Hũ Trang tìm linh mục Lôi, để báo cáo cho ngài ấy sự hỗn loạn ở Minh Lý. Linh mục Lôi nghe tin liền mang theo hai tu sĩ và đồ tế lễ mới mượn, khởi hành về phía nam, chuẩn bị đi đến Hồng Động.
Như chúng ta đã biết, ba chữ “Lôi Minh Viễn” trong tâm trí của tất cả giáo dân Hoa Bắc ngày ấy, là cái tên được yêu thích nhất, được tôn kính nhất, và vang vọng nhất. Khi ngài ấy dẫn hai tu sĩ tới thôn Cửu Cấp, giáo hữu toàn thôn đều nhốn nháo xôn xao. Chuông lớn của nhà thờ vang lên, giáo dân rồng rắn mà đến, chật kín cả nhà thờ. Mọi người hy vọng ngài ấy ở lại đây 2 ngày, không chỉ cử hành thánh lễ, cầu nguyện cho quốc gia, giảng giải đạo lý yêu nước cứu quốc, mà còn để giải tội cho bọn họ nữa.
Linh mục Lôi đã dự tính, đội cứu thương từ Minh Lý chạy loạn, ắt sẽ có người dọc theo đường sắt vào nam, nên xin giáo dân của thôn mỗi ngày phái người canh gác ở cổng thôn, để chào đón anh em cứu thương thất tán. Quả nhiên là đã gặp được chúng tôi.
Chúng tôi vui mừng lưu lại thôn Cửu Cấp hai ngày. Nhưng bởi vẫn chưa biết nơi ở của Sư Trưởng, nên theo kế hoạch đã định tiếp tục xuôi về phía nam. Tới Bình Dao, trời cũng đã tối, liền lưu lại qua đêm ở thành đó. Linh mục Lôi vẫn theo thói quen tìm đến nhà thờ trú ngụ. Linh mục Trương, linh mục quản xứ ở đó vô cùng hoan nghênh, lập tức pha trà làm cơm, để tẩy trần cho linh mục Lôi. Nhưng giáo hữu nghe nói linh mục Lôi tới, liền như ong vỡ tổ tiến đến nhà thờ, tranh nhau xưng tội với linh mục Lôi. Thế là phòng giải tội xếp ra một hàng dài người.
Linh mục Trương thấy linh mục Lôi quá mệt rồi, liền nói với giáo dân: “Anh chị em để linh mục Lôi nghỉ ngơi nhé! Xưng tội với linh mục nào cũng đều như nhau cả, tại sao anh chị em đều tìm linh mục Lôi vậy?”. Giáo hữu chân chất thật thà, chẳng có che đậy cách nghĩ ngây ngô đáp: “thật không giống nhau đâu!linh mục Lôi là thánh nhân, xưng tội với ngài ấy chắc chắn sẽ được nhiều ơn ích hơn”.
KHE HỐI HẬN
Hai ngày nghỉ ở Bình Dao, chúng tôi lại xuôi về phía nam tới Giới Hưu. Ở đó, chúng tôi nhận ra có rất nhiều binh lạc của Quân Đoàn 3. Mọi người đều hăm hở thăm hỏi lẫn nhau về vị trí của bộ chỉ huy quân đoàn và sư đoàn. Trong số quân nhân lưu lạc tại thành này có sĩ quan cao cấp, tham mưu trưởng sư đoàn 7, ông ta đã bắt liên lạc với bộ chỉ huy quân đoàn, cũng đang tìm cách tập hợp quân nhân thất tán, và đem họ trở lại đội. Vì thế, chúng tôi cũng báo danh với ông ta. Ông ta rất vui với sự an toàn của linh mục Lôi. Ông ta cũng nói với chúng tôi, bộ chỉ huy quân sự và bộ chỉ huy hai sư đoàn đều ở Huyện Thấm. Chúng tôi ngày mai sẽ qua Huyện Thấm hội quân với đội.
Sáng ngày 16 tháng 11, hơn 300 binh sĩ thất tán của Quân Đoàn 3, tập hợp trước cửa cơ quan chính phủ huyện Giới Hưu chuẩn bị xuất phát. Người bản địa nói với chúng tôi, có một con đường tắt từ Giới Hưu tới Thấm Huyện, chính là đi qua Miên Sơn. Chúng tôi chỉ cần đi một ngày là tới, vô cùng dễ đi. Tham mưu trưởng ngẩng đầu ngó Miên Sơn, xem ra cũng chẳng quá cao. Hơn nữa, chúng tôi đối với “Đời sống lưu lạc” cũng cảm thấy áp lực và phiền phức, nên ai ai cũng muốn nóng lòng về nhà. Thế là mọi người đều đồng ý: “Đi đường gần qua Miên Sơn”. Chính phủ huyện Giới Hưu phái một người dẫn đường, dắt chúng tôi xuất phát theo hướng đông. Chúng tôi đã đi qua một đoạn đường bằng phẳng, không lâu sau đó đã bắt đầu leo núi. Đường núi lúc đầu vẫn tương đối rộng, độ dốc cũng không lớn, nên mọi người hưng phấn vui vẻ vừa đi vừa hát. Có người còn đạp xe đạp, độ dốc nhỏ thì đạp, khi độ dốc lớn hơn thì dắt, thành ra tương đối “Dễ chịu”. Cát huynh đệ trong số tu sĩ chúng tôi cũng là người như thế.
Lên, lên, chỉ có lên mà không có xuống! Đường càng đi càng hẹp, dốc càng lên cũng càng dốc. Đơn giản là leo lên lăn xuống trong đám đá cỏ. Đừng nói dắt xe đạp, ngay cả chúng tôi đi người không, trên thân mặc áo mùa hè cũng đều hô hấp dồn dập, mồ hôi đầy lưng. Vì vậy, những ai đạp xe xuất phát, đều đem “Ngựa sắt” ném xuống vực.
Linh mục Lôi vốn bị phong thấp, gần đây do trời lạnh áo mỏng, ăn uống lại thất thường, nên lại mắc thêm kiết lỵ. Ngài ấy mặc dù là “Cường nhân” — ý chí mạnh mẽ, cũng chống lại không nổi sự hành hạ của mệt mỏi và bệnh tật. Ngài ấy thật sự đi không nổi nữa rồi. Chúng tôi vốn có một con ngựa già, nhưng dùng để tải những vật phẩm quan trọng. Bây giờ phải bỏ lại một số vật, nhưng không giám lần nữa ném đi đồ lễ, để nhường ngựa cho linh mục Lôi cưỡi qua núi.
Lên núi lại lên núi, đến giữa trưa vẫn chưa tới đỉnh. Chúng tôi hỏi người dẫn đường cuối cùng còn bao xa nữa. Anh ta luôn là nói: “Không xa! Không xa! Lên 35, xuống 40 là đến rồi!”. Kết quả, chúng tôi xuất phát từ 6h sáng, tới 10h đêm, trải qua 16h leo núi, cuối cùng cũng đã nhìn thấy một ngôi làng nhỏ. Chẳng cần nói Huyện Thấm, ngay cả Thấm Nguyên, ngôi làng gần nhất, vẫn còn rất là xa! Mọi người đều lắc đầu thở dài, cảm thán: “Xúi quẩy”!
Linh mục Lôi đã đặt một cái tên lóng cho Miên Sơn, gọi nó là “Khe hối hận”, đại khái ý nghĩa là bởi vì mọi người đều hối hận với sự lựa chọn của mình. Biết như này thì lúc đầu đã chẳng làm như thế.
MỘT HÀO MUA HAI MƯƠI CÁI TRỨNG
Ngày 16 tháng 11 năm 26 Dân Quốc, sau khi leo hơn 16h mới nhìn thấy một thôn nhỏ. Mọi người thực sự mệt mỏi, không thể đi tiếp nữa, nên quyết định dừng lại ở đó nghỉ ngơi. Chúng tôi ăn tạm khoai tây luộc, rồi sau đó nằm lăn trên cỏ mà ngủ một giấc thật ngọt ngào, vì ở đó chẳng có giường.
Ngày hôm sau, chúng tôi tiếp tục lên đường, chầm chậm đi ra khỏi vùng núi hoang trùng trùng điệp điệp này, và lần nữa nhìn thấy lại thế giới ấm nồng – Chúng tôi đã tới Thấm Nguyên. Người ở đây không chỉ vẫn chưa gặp họa chiến tranh, mà còn rất ít khi nhìn thấy “Quân nhân”, càng chưa bao giờ nhìn thấy máy bay địch quần thảo trên không. Thế nên, không chỉ đời sống của họ bình lặng như mặt hồ mùa xuân chẳng có gợn sóng; mà vật giá ở đây cũng bình ổn và thấp, rẻ đến nỗi khiến người ta khó lòng tin tưởng.
Buổi tối hôm đó, chúng tôi trú ngụ trong một thôn trang đương đối lớn. Linh mục Lôi vốn nổi tiếng xử lý công việc và chấp pháp nghiêm như người cha; nhưng lại luôn mang con tim của người mẹ đối xử với người khác. Ngài ấy vì muốn bồi bổ thể lực, hồi phục tinh thần cho mọi người, nên căn dặn tôi làm thêm đồ ăn cho bữa tối. Tôi đến một quán tạp hóa, mua 200 trái trứng, một hào mua được 20 trái, 3 cân mì sợi, và một số linh tinh nhỏ nhặt khác, liền đem ra năm đồng đưa cho chủ quán tính tiền. Anh ta nhận tờ chi phiếu trung ương mới cóng, vui vẻ nhìn đi nhìn lại, sờ tới sờ lui, rồi cầm máy tính toán hai ba lần, rồi thối lại cho tôi tờ bạc Sơn Tây 5 đồng. Tôi ngạc nhiên nói anh ta thối lộn rồi. Anh ta cười khì khì nói: “Không có sai, thứ anh đưa cho tôi đồng Trung Ương á!”. Tôi vui mừng đến nỗi không dám tin vào tai và mắt của mình luôn.
Trở về chỗ ở, tôi hưng phấn nói với linh mục Lôi: vật giá ở đây thấp, nhưng giá của đồng Trung Ương lại cao. Một vị giáo dân bên cạnh lớn tiếng nói: “Thầy mua đắt rồi; tôi một hào mua được 25 trái trứng, uhm!… thầy chỉ mua được hai mươi ư!” Tôi không cam tâm, nói với anh ta: “Cầm ra, chúng ta so lớn nhỏ”. Anh ta nói: “Sớm thì đã ăn hết rồi!” Thế là mọi người cùng cười phá lên.
Theo như quy định khi sáng lập Hội Dòng Gioan Tẩy Giả, thì không cho phép chúng tu sĩ ăn thịt cá, cũng không cho phép dùng trứng. Từ ngày đó trở đi, linh mục Lôi đã giải trừ cho chúng tôi quy định “Cấm ăn trứng” vậy.
ĐẠI NGHỈ NGƠI VÀ TIỂU NGHỈ NGƠI
Đoàn người hơn ba trăm lạc binh chúng tôi, vừa đi hơn một ngày đường, cuối cùng ngày 19 tháng 11 trong một thôn nhỏ ở ngoại thành Thấm Huyện, đã tìm thấy bộ chỉ huy Sư Đoàn 12, và hợp nhất với những tu sĩ và những thành viên đội cứu thương khác, những người đã đi theo Sư Trưởng. Linh mục Lôi lập tức dắt theo tôi đi gặp sư trưởng Đường, người cách biệt đã lâu. Sư trưởng Đường vui vẻ nói liên thanh: “Tôi cái gì cũng không sợ, chỉ sợ mất đi mọi người! Lôi tiên sinh, ông vất vả rồi!” sau khi hai người lớn tiếng mấy lời, thì sư trưởng Đường dùng giọng trầm thống nói với linh mục Lôi, Lữ Đoàn 35 vì tổn thất quá nặng, đã từ “Quân Độ”- phía tây Thái Nguyên, băng qua Hoàng Hà và Thiểm Bắc, đi tới đại hậu phương chỉnh đốn lại quân. Lữ trưởng Mã Lữ Đoàn 34 vì không cam tâm mang mũ “Thất bại”, đã không từ mà biệt. Liên quan đến việc này, sau này chúng ta sẽ nói đến sau.
Chân núi Thái Nhạc đã vào mùa đông, vừa vặn rơi xuống cả một trận tuyết lớn. Trái lại, chúng quân nhân vẫn như cũ mang y phục mùa hạ, vẫn chưa đổi y phục mùa đông. Ngoài sự hỗn loạn, lại thêm vào không khí lạnh, khiến ý chí chiến đấu của mọi người dần dần khô héo. Rồi lại nghe nói Lữ Đoàn 35 đã qua Hoàng Hà chỉnh đốn lại quân, thế là câu chuyện “Qua Hoàng Hà nghỉ ngơi” bắt đầu truyền bá trong quân.
Sau khi sư trưởng Đường nghe được tin tức này, muốn chấn chỉnh sĩ khí ba quân, nên ngày 21 đã triệu tập toàn thể binh sĩ nói chuyện. Ngài ấy trước tiên kiểm thảo được mất trong chiến dịch Tân Quan và Nương Tử Quan. Ngài ấy không thừa nhận bại trận, ngài ấy nói đó là sự bố trí của toàn cục thế trận. Sau đó, ngài ấy quay sang chỉ về linh mục Lôi và chúng tu sĩ đang đứng ở đầu hàng khu vực trung tâm của ba quân, đồng thời cũng nói với mọi người: “Lôi tiên sinh, người ta là người Bỉ, vẫn sẵn sàng vì Trung Quốc xông pha; chúng tu sĩ, người ta vốn có thể tại gia tu hành, vậy mà vẫn đến tiền tuyến, chẳng phải để làm quan, cũng không phải kiếm tiền, nhưng hoàn toàn là để phục vụ mọi người, họ không nói qua Hoàng Hà nghỉ ngơi. Quân nhân anh em, bảo vệ quốc gia là trách nhiệm của anh em, sao có thể kêu gào nghỉ ngơi đây?…”
Sau khi Sư Trưởng nói chuyện với mọi người, thì xin linh mục Lôi lên đài – đặt trên những bàn vuông lộ thiên – nói vài lời. Linh mục Lôi bước lên đài, trước mắt nhìn thấy một dải mây bàng bạc mêng mang, thêm gió lạnh thổi đến ào ào, thế là ngài ấy tức cảnh sinh tình, hưng phấn nói: “Anh em thân mến! Anh em đều là thanh niên hảo hán, chúng ta hôm nay đến thi đấu một chút: người nào có thể chống lại với gió bắc và tuyết lớn, mới tính là anh hùng kháng Nhật. Sư trưởng và tôi, tuổi lớn nhất, vẫn không nói lao khổ, thanh niên anh em, ai lại nghĩ đi nghỉ ngơi sao? Sẵn sàng đi theo Sư Trưởng; muốn nghỉ ngơi hay ngược lại. Nhưng, có hai việc: nếu chết trận, tôi đưa anh em tới thiên đàng, làm kỳ nghỉ lớn trường kỳ; nếu bị thương, tôi đảm bảo đưa anh em tới bệnh viện, làm kỳ nghỉ nhỏ ngắn hạn. Nhưng dưới tuyết trắng gió mát đêm nay, lấy rơm rạ làm nệm, lấy bông tuyết làm chăn, nghỉ ngơi một đêm thì đủ rồi….”
Quan chỉ huy lãnh đạo mọi người hét lớn tiếng: “Chúng tôi theo Sư Trưởng lần nữa lên đường đi giết địch!”
VANG XA CŨNG VANG GẦN
Có người phê bình linh mục Lôi “Vang dội miền xa” (tên của linh mục Lôi) nhưng lại không “Vang dội miền gần”.
Nhiều người trước khi nhìn thấy linh mục lôi, thì đã không ít lần nghe tới “Đại danh” cũng như những câu chuyện “Có tính truyền kỳ” của ngài ấy. Đặc biệt, nếu còn được nhìn thấy bức ảnh “Hai mắt long lanh phát sáng” của ngài ấy, trong đầu ắt hẳn sẽ lượn lờ đầy những liên tưởng về một vị “Vĩ nhân”. Nhưng chờ đến khi nhìn thấy bản thân ngài ấy, ắt hẳn sẽ lại cảm thấy thất vọng. Vóc dáng vốn dĩ nhỏ thó thấp thấp, quần áo giản đơn, đầu trọc, chân trần, cũng ăn, cũng uống, cũng ngáp, chẳng khác gì một người bình thường cả.
Đó là cái nhìn về toàn bộ “Vẻ bề ngoài” của ngài ấy. Kỳ thực, đợi tới khi bạn tiếp xúc với ngài ấy đủ lâu, bạn sẽ cảm thấy tinh thần vĩ đại của ngài ấy dần dần tỏa ra ngang qua vóc dáng nhỏ thó ấy, cũng như trong các hành vi thường ngày. Điều ấy khiến cho ấn tượng của bạn đối với ngài ấy sẽ chuyển biến 180 độ.
Từ tháng 8 năm 26 đến tháng 9 cùng năm, linh mục Lôi thống lĩnh đội cứu thương Công Giáo tòng quân kháng chiến. Mặc dù đã kinh qua nhiều nơi, như Huyện Dị Hà Bắc, Từ Thủy, Bảo Định, An Quốc, Thạch Môn, Nương Tử Quan, nhưng hầu như đều là theo quân rút lui nên vẫn chẳng có cơ hội để thể hiện năng lực. Vì thế, đội cứu thương chúng tôi thường xuyên phải đối mặt với những đôi mắt khinh khỉnh của bộ đội vũ trang. Họ phê bình, cười nhạo chúng tôi là “Thường dân”, là đám “Ăn không ngồi rỗi”. Nhưng đại chiến đẫm máu 15 ngày ở Tân Quan, gần Nương Tử Quan đã thay đổi tất cả những điều tiêu cực ấy của toàn bộ quan binh trong Sư Đoàn 12. Đội cứu thương chúng tôi mới lần đầu thực sự chiến đấu, nhưng đã đạt được nhiều chiến công vang dội. Chúng tôi trong mưa bom bão đạn, không ăn không ngủ, cáng cứu được cả hơn ngàn thương binh. Từ đấy, Linh mục lôi cũng từ “Kẻ ăn xin cao cấp” mà trở thành “Cha của Quân Đoàn 3”.
Ngày 21 tháng 11, sư trưởng Đường tập trung toàn thể quan binh sư đoàn 12 tại ngoại ô Huyện Thấm nói chuyện, và sắp xếp cho đội cứu thương chúng tôi đứng ở vị trí trung tâm vinh dự nhất phía trước quân. Sau khi ông ấy khiển trách đủ kiểu thái độ “Chán chiến tranh” của thuộc hạ, thì lại lớn tiếng tán dương những thành tích của đội cứu thương chúng tôi. Ngày hôm đó là ngày nắng trong xanh, sau khi những đám mây lớn lần lượt bay qua. Mặt trời lên cao, khắp nơi mây trắng, ánh nắng xuyên qua những sợi bông trắng phản chiếu lại không trung, khiến cho quang cảnh càng thêm phần rực rỡ trong trẻo. Linh mục Lôi và hơn 20 tu sĩ đứng phía trước đội giữa hội trường, hai tà vải đen Áo Đức Bà giống như dải lụa phấp phới theo gió, thật sự có khí phách tựa như thần tiên vậy.
Sau khi Sư Trưởng nói chuyện, bài diễn thuyết hùng hồn khẳng khái về “Đại nghỉ ngơi và tiểu nghỉ ngơi” của linh mục Lôi khiến cho người nghe cảm động tựa hồ rơi nước mắt. Bọn họ chẳng vì Sư Trưởng tán thưởng chúng tôi mà sinh lòng đố kỵ, trái lại từ “Sự coi khinh của ngày thường” đã được thay bằng “Sự ngưỡng mộ trong hiện tại”. chúng quân binh thật sự đã phải nhìn đội cứu thương chúng tôi với con mắt khác. Hơn nữa, thông qua cuộc hỗn chiến đẫm máu ít ngày đó, Linh mục Lôi đã trở thành người anh hùng mà mọi người sùng bái, trở thành “Từ phụ” mà mọi người mến yêu, kính vọng.
HỪNG ĐÔNG LÓ DẠNG
Ba chữ “Lôi Minh Viễn”, mặc dù sớm đã danh trấn Hoa Bắc, người người đều biết; nhưng trong Quân Đoàn 3 do con cháu người Vân Nam tổ chức nên, thì đó vẫn là một cái tên xa lạ. Từ sau chiến dịch Tân Quan, đặc biệt là sau lần diễn thuyết công khai này, ba chữ “Lôi Minh Viễn” trong quân như chiếc kim trong bọc lâu ngày lòi ra, giống như hừng đông ló rạng chậm chậm chiếu sáng và tỏa nhiệt vậy.
Ngày thứ hai sau khi sư trưởng nói chuyện với sư đoàn, ngài ấy phái người mời linh mục Lôi và tôi tới bộ chỉ huy sư đoàn trò chuyện. Sư Trưởng mặt mày ủ rũ, dùng giọng nói run rẩy và bực tức kể cho chúng tôi chuyện lữ trưởng Mã, Lữ Đoàn 34 đã mất tích. Ngài ấy đề nghị chúng tôi phái hai giáo dân giỏi giang đáng tin đi Hồng Động tìm kiếm tung tích của Lữ trưởng Mã, và tìm cách mời anh ta trở lại.
Lữ trưởng Mã vốn là người có cá tính rất mạnh mẽ, phong cách chủ nghĩa anh hùng cá nhân cũng chẳng chịu kém cạnh. Anh ta không chấp nhận thất bại ở Tân Quan, cũng không chủ trương thoái lui. Nhưng Sư Trưởng nhìn cả thảy cục diện chiến trường, lại phục tùng sự bố trí của bộ chỉ huy tối cao, lệnh cưỡng bách anh ta chuyển dịch trận địa. Nhưng anh ta chẳng có mau mắn thoái lui, đơn độc tác chiến hai ngày ở Tân Quan, rồi mới đột phá vòng vây thoái lui, Vì vậy mà ý kiến bất đồng với sư trưởng Đường. Trong cơn giận dữ, anh ta đã đem phó quan và binh sĩ cần vụ thân tín nhất của anh ta không từ mà đi mất.
Theo như suy đoán của quân nhân gần gũi với lữ trưởng Mã, điểm dừng đầu tiên sau khi anh ta rời đi đại khái là Hồng Động. Vì thế, linh mục Lôi đã phái hai giáo dân mau chóng dùng xe hơi đi Hồng Động tìm kiếm, và mời cấp dưới của trạm trưởng trạm xe lửa Hồng Động lưu ý quan sát những hành khách đi về phía nam, xem có thấy người nào có tướng mạo giống lữ đoàn Mã hay không.
Sau mấy ngày, hai vị giáo dân từ Hồng Động qua lại báo cáo không đạt được kết quả gì. Sư trưởng Đường mặc dù vì mất đi một vị lữ trưởng tài năng thiện chiến mà đau lòng, nhưng đối với công việc của linh mục Lôi trong sư đoàn lại cảm thấy vạn phần vinh hạnh mà khuây khỏa. Ngài ấy nói, niềm an ủi này đủ để lấp đầy sự đau buồn đối với việc ra đi của lữ trưởng Mã. Ngài ấy lập tức đề bạt tham mưu trưởng Thốn Tính Kỳ làm lữ trưởng Lữ Đoàn 34, và làm tờ trình xin trung ương phê duyệt.
Hôm đó, trung đoàn trưởng Dương Dục Côn, Trung Đoàn 68 đến đội cứu thương thăm linh mục Lôi. Anh ta chính là người đầu tiên quen linh mục Lôi và đem ngài ấy giới thiệu với sư trưởng Đường để tổ chức đội cứu thương. Sự gắn bó của anh ta đối với linh mục Lôi, so với sư trưởng Đường có phần thân thiết hơn. Ngoài ra, thái độ của anh ta đối với tu sĩ chúng tôi cũng lộ rõ sự thân thiết đặc biệt. Anh ta không giống những quân nhân khác, gọi linh mục Lôi là “Tiên sinh” hoặc “Lão đại đội trưởng”, mà gọi là “Linh mục”; và cũng thường xưng hô với chúng tu sỹ là “Huynh đệ”.
Trung đoàn trưởng Dương lần này tới thăm chúng tôi, là để dò hỏi linh mục Lôi có thể đề xuất một vài giáo dân tháo vát và đáng tin, để tổ chức đội quân nhân ngầm, trực thuộc Trung Đoàn 68, phục vụ công việc chiến đấu “Cơ động” nhất. Anh ta thừa hiểu thân phận của linh mục Lôi và chúng tu sĩ không tiện lãnh đạo công tác này, nên anh ta chỉ đề xuất linh mục Lôi giới thiệu giáo dân – nhất định phải là giáo dân, tốt nhất là những giáo dân kỳ cựu lâu đời có đức tin kiên vững. Ngài ấy nói: 4 tháng qua, tôi vô cùng ấn tượng với những biểu hiện của các giáo dân. Tôi mặc dù không tin giáo, nhưng tôi lại tín nhiệm linh mục, tu sĩ, và chúng giáo dân của ngài.
Linh mục Lôi đáp ứng đợi tới Hồng Động, khi chiêu mộ giáo dân bổ sung đội cứu thương, nhất định sẽ cân nhắc đề xuất của trung đoàn trưởng. Trung đoàn trưởng Dương khi cáo biệt, đã nắm chặt lấy tay linh mục Lôi, thay mặt quan binh Trung Đoàn 68, lần lần bày tỏ lòng biết ơn đối với linh mục Lôi, và nói: “Ngài khả năng không hiểu tâm lý của quân nhân: họ không sợ chiến đấu, cũng chẳng sợ chết trận, nhưng chỉ sợ bị thương không ai cứu; ngài thực sự là cột trụ tinh thần của toàn thể chúng tôi vậy!”.
XÚC ĐỘNG ĐẾN RƠI LỆ
Sau mấy ngày nghỉ ngơi ở Huyện Thấm, Sư Trưởng hạ lệnh cho Toàn bộ sư đoàn chúng tôi nhổ trại tiến về Hồng Động, với mục tiêu chủ yếu là lãnh nhận quân nhu mùa đông, như áo ấm, chăn bông,… để thay thế cho quân nhu mùa hè. Thực ra quân nhu mùa đông sớm đã được vận chuyển đến trạm xe lửa Dương Tuyền từ đầu tháng 11 rồi, nhưng không kịp phân phát, vì Nương Tử Quan và Thái Nguyên lần lượt thất thủ. Cho nên, tất cả đồ tiếp tế của quân đội đều hết thảy tập trung ở Hồng Động chờ xử lý. Khi ấy, dọc theo chiến tuyến vừa dài vừa rộng của chiến khu thứ nhất, các cánh quân của ta chủ yếu phân bố ở những dải đất núi, đường xá vận chuyển khó khăn. Đối diện với điều ấy, Trung Ương liền hạ lệnh cho các đơn vị trực thuộc tự túc tới Hồng Động nhận quân nhu mùa đông.
Từ Huyện Thấm tới Hồng Động, đi bộ tối đa hơn ba ngày là tới. Nhưng vì tuyết tan đường trơn, chúng tôi bộ hành năm ngày mới có thể tới Hồng Động, và dựng trại ở trấn Tô Bảo, cách Hồng Động khoảng mười cây số.
Hành quân trên đoạn đường này quả thực gian khổ vô cùng. Trong thời tiết của tháng 11 mà gió tuyết thi nhau vần vũ, mọi người vẫn chưa được thay đi những chiếc áo mùa hè phong phanh, cộng thêm sự lầy lội của những con đường núi chứa đầy tuyết trắng tan chảy, cảnh ngộ bị trượt té dường như chẳng bỏ xót một ai trong chúng tôi. Chúng tôi vốn dĩ đã chuẩn bị cho linh mục Lôi một con ngựa già, nhưng chỉ vì cưỡi trên ngựa, hai chân không hoạt động, khiến ngài ấy lạnh đến nỗi chịu không nổi, mà miễn cưỡng đi bộ. Vì sức lực thuyên giảm, nên có hai tu sĩ thanh niên cường tráng hai bên dìu ngài ấy bước đi. Kết quả, ba người cùng nhau trượt ngã, may mắn là chẳng có trơn trượt xuống khe sâu, chỉ bị xây sát chân tay mà thôi.
Sư trưởng Đường vì gần đây tâm tình không tốt, lại mạo hiểm gió tuyết hành quân nên ngã bệnh khá trầm trọng. Ngài ấy liên tục sốt cao, khiến cho việc cưỡi ngựa cũng trở thành vấn đề. Linh mục Lôi nghe nói vậy, lập tức phái 8 vị giáo dân, ngoài ra còn có tu sĩ Lữ Bân tự đứng ra nhận việc, thay nhau dùng cáng thương tải Sư Trưởng hành quân.
Tới chiều tối, khi dựng trại nghỉ ngơi ở trấn Lương Mã, tôi cùng linh mục Lôi đến thăm Sư Trưởng, ngài ấy nắm chặt tay linh mục Lôi, một lời cũng chẳng nói, khắp mặt nước mắt giàn dụa, thể hiện tâm tình cảm kích không thôi của ngài ấy.
NGHE TIN NỔI DẬY
Đội cứu thương xuất phát theo Sư Đoàn 12 từ Huyện Thấm tới Hồng Động. Sau năm ngày, tới cuối tháng 11 mới đến, và dựng trại ở trấn Tô Bảo, cách Hồng Động khoảng 10km về phía đông. Linh mục Lôi liền tới nội thành Hồng Động, làm khách của giám mục Thành Ngọc Đường, một người bạn lâu năm của ngài ấy.
Mục đích chủ yếu chúng tôi tới Hồng Động là lãnh quân nhu mùa đông. Vì thế, sau ba ngày, quân nhu đã được vận chuyển từ Hồng Động tới quân doanh của chúng tôi. Thế là mọi người hưng phấn bận rộn một trận. Chúng chiến sĩ đã vất vả cả tháng hơn, hiện tại cơm no áo ấm, lại có thể tới nội thành Hồng Động ngao du thưởng ngoạn phong cảnh, khiến cho tâm tình phiền não cũng như những cơ bắp mỏi mệt của họ, đều như giãn ra tan biến, rất nhanh thì liền hồi phục lại thể lực và tinh thần đã mất đi.
Linh mục Lôi nhân thời gian nghỉ ngơi này, dự định chiêu mộ giáo hữu, bổ sung sự thiếu hụt của đội cứu thương. Vốn dĩ đội cứu thương ba trăm người, riêng chiến dịch Bảo Định đã làm tứ tán hơn phân nửa. Trước mắt chỉ còn có hơn 130 người. Linh mục Lôi sau khi nhận được sự đồng ý của sư trưởng, liền triệu tập đội cứu thương hội họp, bàn thảo làm thế nào tiến hành công tác chiêu mộ. Kết quả bàn thảo, mọi người nhất chí quyết định, để tranh thủ thời gian, liền lập tức tra tay tiến hành. Chỉ có một điểm, chúng tôi bất đồng ý kiến với linh mục Lôi: chúng tôi đồng thanh yêu cầu ngài ấy theo sư trưởng về đại hậu phương chữa trị bệnh tật, công việc cứu hộ tạm thời do phó đội trưởng Bảo Lộc đảm trách. Linh mục Lôi lúc đầu không chịu, nhưng trải qua nhiều lần nài nỉ của chúng tôi và lời khuyên của sư trưởng, cuối cùng cũng đã chấp nhận. Thế là ngài ấy đưa theo tu sĩ Nhược Hằng qua Hoàng Hà, qua Đồng Quan, thăm Trường An,… sau đó lại đến Hán Khẩu.
Trong con mắt của giáo dân Hoa Bắc, linh mục Lôi không chỉ là anh hùng, mà còn là một vị thánh. Chỉ cần vừa nghe ba chữ “Lôi Minh Viễn”, mặc dù chẳng có thấy qua ngài ấy, thì cũng đã dậy lên sự thành kính và khâm phục. Vì thế, đối với lời hiệu triệu của ngài ấy, thì vừa nghe liền hưởng ứng, lũ lượt đến báo danh.
Trong đám tu sĩ chúng tôi có mấy vị vốn là người Sơn Tây, nên phó đội trưởng Bảo Lộc liền phái mấy người chia nhau tới một dải Hồng Động, Triệu Thành, Hắc Huyện, Lộ Thành, Vũ Hương chiêu mộ giáo dân. Nhờ vào sự trợ giúp và cổ vũ của các linh mục bản địa, thật là nhất hô bách ứng, không tới mười ngày, thì đã gọi tới hơn trăm nam thanh niên. Nghe nói, có những vị cô nương nghe nói linh mục Lôi chiêu mộ đội cứu thương, thì dậm chân hậm hực, hận vì đã không sinh làm thân nam nhân. Lúc đó, đội cứu thương không nhận nữ hộ sĩ.
Sau khi chỉnh đốn xong đội cứu thương, tôi đã tạo một danh sách, đi báo cáo với lữ trưởng Thốn Tính Kỳ, người đang tạm thay thế sư trưởng lo việc quân. Sau khi ngài ấy nghe, hét lớn một tiếng: “Linh mục Lôi thật là tài ba! Chỉ cần nhờ ba chữ “Lôi Minh Viễn”, liền có sức hiệu triệu to lớn như vậy, nếu đích thân ngài ấy ra trận, thì cục diễn sẽ ra như nào nữa đây!”
THÁNH LỄ CAO QUÝ
Không lâu sau khi linh mục Lôi và Sư Trưởng Đường rời đi, ngày 15 tháng 12, cấp trên hạ lệnh xuống, muốn Sư Đoàn 12 đương thời chỉ có Lữ Đoàn 34, nhổ trại tiến về phía bắc, tới cực bắc của núi Thái Nhạc, để giám sát quân địch đang cát cứ ở huyện Thái Cốc Tề. Chúng tôi theo bộ chỉ huy lữ đoàn bắc tiến, qua Thấm Nguyên tới trấn Quách Đạo trú ngụ nửa tháng, và ở đó trải qua Lễ Giáng Sinh không có thánh lễ. Sau tết Nguyên Đán, chúng tôi lại tiếp tục bắc tiến tới trú ngụ ở trấn Vương Hòa, thuộc cao nguyên Bình Dao. Quân Đoàn 3 cũng lấy nơi này làm căn cứ, một mặt giám sát địch ở đồng bằng, một mặt cũng bất ngờ đánh du kích ở khắp nơi. Bởi ngày đông giá rét, nên cũng không có những trận đánh quy mô lớn, vì vậy số thương binh cũng ít, và công việc của đội cứu thương cũng phần nào thoải mái hơn.
Sau khi linh mục Lôi rời khỏi đội cứu thương, nỗi thống khổ lớn nhất của chúng tôi là không được rước “Thần lương”, không được tham dự thánh lễ, giải tội và lãnh Thánh Thể. Chúng tôi đã vài lần dò hỏi, mới biết ngôi thánh đường gần nhất là ở nội thành Bình Dao, và khoảng cách giữa hai nơi là khoảng ba mươi cây số, lại còn phải đi qua một đoạn đường núi tương đối cao.
Một tuần trước giao thừa, tôi đề nghị thành lập “Đoàn viễn đạo tham dự thánh lễ”, và mời gọi mọi người tự do báo danh, liền lập tức có người hưởng ứng. Không tốn nhiều công sức, nhưng đã có hơn 50 người báo danh, bao gồm cả tu sĩ lẫn giáo dân.
Chúng tôi một hàng hơn 50 người, khởi hành từ nửa đêm Chúa Nhật, mạo hiểm gió lạnh, đạp lên tuyết sương, mò mẫm trong trời đêm trèo đèo vượt núi, khắc phục mọi khó khăn. Trời vẫn chưa sáng, chúng tôi đã tới giáo đường Bình Dao. Xưng tội, tham gia thánh lễ, lãnh Thánh Thể, cầu nguyện,… giống như lữ khách trong hoang mạc gặp phải suối nguồn, mọi người say mê tận hưởng vui uống thỏa thuê, và đã quên đi mọi mệt nhọc và lãnh lẽo lúc đương thời.
Sau thánh lễ còn tiếp tục tham gia Chầu Thánh Thể, rồi mới theo đường cũ trở về doanh trại. Trên đường, mọi người đều vui vẻ hưng phấn cất cao tiếng hát, và cho rằng đây là thánh lễ cao quý nhất cuộc đời của họ.
TU ĐỨC CHÍ THIỆN
Cuối tháng 2 năm 27 Dân Quốc, sau khi mùa xuân đến, các cánh quân địch lại bắt đầu náo động: quân địch ở tuyến Bình Hán có dấu hiệu tiến vào Đông Dương Quan, quân địch ở Thái Cốc cũng có hiện tượng tiến vào bình nguyên Đông Nam Tấn. Vì thế, Quân Đoàn 3 phụng mệnh dịch chuyển về phía đông, gia tăng sức mạnh phòng thủ cho Đông Nam Tấn. Đội cứu thương theo Lữ Đoàn 34 từ trấn Vương Hòa-Bình Dao, đi qua Quách Đạo, Vũ Hương, tiến về phía bắc đóng quân ở trấn Cổ Thành, gần Du Xã.
Khi ấy mặc dù tin tức chiến sự khả năng sẽ chuyển sang ác liệt, nhưng quân doanh của chúng tôi lại thập phần yên tĩnh, giống như ở đại hậu phương vậy. Vì vậy, chúng tôi liền nhớ đến danh ngôn của thánh Biển Đức “Thần công chí thượng, tu đức số một”, mà tìm kiếm địa điểm thánh đường, để chuẩn bị đến đó tham dự thánh lễ. Kết quả thăm dò, các thánh đường đều cách chúng tôi rất xa, thật khó để tác thành nguyện vọng của chúng tôi.
Tôi từ cục quân nhu được biết xe hơi của trại quân nhu thường tới hậu phương vận chuyển vật phẩm quân nhu. Vậy nên, được sự đồng ý của phó đội trưởng Bảo Lộc và Cục Quân Nhu, Tôi ngồi xe hơi tới Lục An (Trường Đài), dự định mời một vị linh mục tới cử hành bí tích, để giải cơn đói khát thiêng liêng cho đội cứu thương.
Khi tới tòa giám mục Lộc An, tôi trước tiên đi bái kiến vị linh mục bản địa, linh mục Tôn (nghe nói sau này được tấn phong làm giám mục), ngài ấy là một trong những bạn hữu của linh mục Lôi. Tôi nói cho ngài ấy biết mục đích tôi đến, ngài ấy rất vui mừng xung phong lãnh trách nhiệm và nguyện đích thân đi; nhưng chỉ là không nguyện đích thân đi xin phép giám mục. Tôi cúi sâu lạy tạ ngài ấy, và nói với ngài ấy: “Tôi đi xin phép giám mục”.
Tôi đã đến gặp giám mục Miêu (người Hà Lan), dùng ngôn từ thành khẩn nhất xin ngài ấy phái một vị linh mục tới đội cứu thương cử hành bí tích. Giám mục nghe xong, mặt liền biến sắc, khéo léo từ chối:
— Đường quá xa, lại chẳng có phương tiện giao thông, thực sự khó mà xử lý.
— Phương tiện giao thông do con giải quyết, con có thể bàn bạc và dùng xe hơi vận chuyển.
— Để ta từ từ cân nhắc, qua mấy ngày rồi lại nói.
— Giám mục! Hiện tại thời gian cấp bách, tốt nhất là ngày mai phải lên đường rồi ạ!
— Ta không thể kiên quyết phái một vị linh mục, nên phải thương lượng với họ, con nghĩ ai có thể cũng con ra tiền tuyến vậy!
— Giám mục hỏi linh mục Tôn thử xem! Tôi đáp.
Giám mục vừa nghe tôi nhắc đến linh mục Tôn, liền ngớ ra một lát, nói: “Linh mục Tôn? Ngài ấy chưa chắc đồng ý! Nhưng con có thể hỏi ngài ấy”.
Tôi lập tức rời khỏi phòng giám mục, đi tìm linh mục Tôn. Sau đó, hai người chúng tôi cùng đi gặp giám mục. Giám mục chối từ không được, liền miễn cưỡng đáp ứng. Nhưng nhất nhất dặn dò tôi: “Phải sớm đưa linh mục Tôn trở về nha!” — “Đương nhiên, giám mục an tâm!” tôi đáp.
Ngày hôm sau, tôi cùng linh mục Tôn ngồi xe hơi tiến thẳng ra tiền tuyến. Hơn ba trăm nhân lực của đội cứu thương vui mừng tập trung lại, vỗ tay hoan nghênh. Mọi người giống như ruộng cạn đợi mưa giông, chen lấn thành một hàng dài, rồng rắn tìm linh mục Tôn xưng tội.
VÔ CÙNG HỐI HẬN
Sự bình yên của cục diện chiến tranh trong thời gian gần đây thật giống như bình minh trước khi bão đến. Chúng tôi, những kẻ chẳng có chút kiến thức quân sự, làm sao có thể hiểu được những loại dấu hiệu này.
Ngày thứ tư sau khi linh mục Tôn đến với đội cứu thương chúng tôi, trong thời khắc bình minh của ngày mới, quân đoàn đột nhiên ban bố mệnh lệnh khẩn cấp, muốn chúng tôi phải lập tức xuất phát lên phía bắc. Tôi kinh hoàng cảm thấy vạn phần bất an: Linh mục Tôn là người tôi mời đến, hơn nữa tôi cũng đã đảm bảo với giám mục đem ngài ấy an toàn trở về Lộc An, nhưng bây giờ phải xuất phát, làm thế nào sắp xếp ổn thỏa cho linh mục Tôn đây! điều này khiến tôi rơi vào hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan, thập phần khó chịu.
Theo như tin tức, hai ngày nay, địch quân một mặt tấn công từ phòng tuyến phía đông núi Thái Hành, đã đột phá Đông Dương Quan, trực tiếp tiến vào Lộc An; một mặt khác, quân địch cũng từ Thái Cổ dọc theo đường chính, tiến về phía nam, tấn công Du Xã. Mệnh lệnh mà Quân Đoàn 3 chúng tôi nhận được là phải bắc tiến chi viện cho Du Xã.
— Tôi đem tin tức này nói với linh mục Tôn, và thật thà đem khốn cảnh của bản thân nói ra: “Tôi vừa không thể đem ngài ấy cùng lên hỏa tuyến, lại cũng không dám đưa ngài ấy trở về Lộc An, bởi vì giao thông Lộc An lúc ấy đã bị cắt đứt, tình trạng không rõ ràng. Tôi cảm thấy vạn phần buồn bã”.
— Linh mục Tôn trái lại an ủi tôi: “Anh không cần phải xấu hổ, tôi đã truyền giáo ở đây nhiều năm, nên đường xá vô cùng quen thuộc, tôi có thể đến bất cứ ngôi nhà thờ nào gần đây để trú ngụ. Nếu nhất thời không thể quay lại Lộc An, tôi sẽ ở nhà thờ ấy truyền giáo. Anh em an tâm theo quân đi đi!”
— “Làm thế nào giải thích với giám mục Miêu đây?” Tôi rơm rớm nước mắt hỏi linh mục Tôn.
— Sau này gặp giám mục, tôi tự sẽ có lời giải thích với ngài ấy.
Linh mục Tôn nói đoạn, vỗ vỗ vào vai tôi, rồi vẫy tay cáo từ.
Mắt tôi ngậm đầy nước mắt tiễn linh mục Tôn, và đợi chờ cho tới khi thân ảnh của ngài ấy mờ dần trong sương sớm, tôi mới xoay người trở về trụ sở, vác lên vai hành trang, vội vàng cùng đại đội xuất phát.
Đi tới nơi cách Du Xã hơn 5 cây số, đột nhiên mệnh lệnh cấp bách lại truyền xuống, dừng tiến về phía trước. Chúng tôi dừng lại ở một thôn trang nọ nghỉ ngơi ít phút, rồi chuyển hướng về phía nam, lệch về hướng đông mà đi. Nghe đâu đi chi viện cho Tương Viên. Kỳ thật, Việc quân biến hóa khôn lường như thế đó, tôi hôm nay càng lãnh hội thêm mùi vị của nó.
Sự khó bề phân biệt của cục diện chiến tranh quả nhiên khiến người ta cảm thấy khó khăn; sự lưu lạc của linh mục Tôn càng khiến tôi thêm phần áy náy và hối hận, dằn xéo tôi suốt thời gian hành quân.
Sau hai tháng, toàn bộ quân địch xông vào Đông Nam Tấn đều đã bị quét sạch. Tôi mặc dù chẳng có cơ hội đi Lộc An bái kiến linh mục Tôn, nhưng nghe nói ngài ấy đã bình an trở về tòa giám mục, tấc lòng của tôi mới dần được tháo cởi và dần bình yên trở lại.
NẮNG HẠN GẶP MƯA RÀO
Đầu tháng 3 năm 27 Dân Quốc, địch quân ở hành lang Đông Nam Tấn, phát động ba cánh quân (hoặc nhiều hơn) bắt đầu tấn công. Lữ Đoàn 34, Sư Đoàn 12, Quân Đoàn 3, trước tiên phụng lệnh đi Du Xã chặn đường quân địch, nhưng không biết sao giữa đường lại quay trở lại. Đoàn quân đang vội vã hành quân về phía đông, nhưng lại quay ngắt về phía tây mà đi, sau cùng cũng chẳng có chạm trán với quân địch. Hơn nữa, sự khó đoán của cục diện thế chiến còn khiến chúng tôi mệt bở hơi tai. Tôi vì phụ trách áp tải cấp dưỡng cho đội cứu thương, cứ đi đi lại lại, liên tục thay đổi hướng hành quân, nên chậm chi viện, nhiều lúc mất đi liên lạc với đội ngũ. Phần nữa cũng tại sự cơ động của chiến tranh, nên thường vội đông vội tây, nên chúng tôi đã đi qua không biết bao con đường vòng vo phí sức, mò mẫn trong những đoạn đường núi đến cả hơn hai ngày mới có thể nhìn thấy đường sống. May mà có cờ hiệu chỉ đường của anh em tu sĩ lưu lại dọc đường, chúng tôi cuối cùng cũng tìm thấy đội cứu thương ở một sơn trang, phía bắc Tương Viên.
Vừa tiến vào sơn trang, người đầu tiên tôi gặp đã lớn tiếng chào hỏi tôi: “Tu sĩ! Tu sĩ! Linh mục Lôi đã trở về rồi!”.
Tin tức ấy thật sự giống như tiếng sấm mùa xuân, lại cũng giống như một trận mưa rào quét qua và lấy đi sạch sẽ những muộn phiền và lắng lo của tôi trong hơn hai ngày qua. Thế là tôi ba chân bốn cẳng loạng choạng chạy tới phòng của linh mục Lôi. Hai người chúng tôi lâu ngày gặp lại, lại chẳng có lời nào có thể nói ra. Nhân sinh tràn đầy sự mâu thuẫn mà!
Sau khi tới hậu phương chữa bệnh, linh mục Lôi vốn dĩ từ đầu tháng 12 năm 26 Dân Quốc, đã tới tu viện lâm thời của hội dòng ở Thiểm Tây, gọi tới hơn 20 tu sĩ trẻ, và cũng chiêu mộ vài giáo dân để bổ sung cho đội ngũ cứu thương. Bọn họ một hàng hơn 20 người, theo lữ đoàn 35 sau khi đã chỉnh đốn hoàn bị, từ Hà Nam tiến lên phía bắc, đột phá tuyến phong tỏa của địch, tới nơi này hội quân với Quân Đoàn 3.
Linh mục Lôi lần nữa trở lại tiền tuyến, không chỉ đội cứu thương như nắng hạn lâu ngày được tưới gội, hoan hỉ dị thường, mà ngay cả toàn thể Quân Đoàn 3, cũng đều vì việc này mà phấn khởi không thôi!
[1] Vào cuối triều đại nhà Thanh, các thành viên của phong trào Nghĩa Hòa Đoàn dùng thuật ngữ này để chế nhạo những người Trung Quốc theo Chúa Kitô hoặc tham gia vào các công việc của Tây phương.

