Jean Paul Wiest, ngày 9 tháng 1 năm 2025,
Người dịch: Tiểu đệ Mẫn Đường, ngày 21 tháng 4 năm 2025.
“Tôi sẽ đến Trung Quốc và chết như một vị tử đạo”, đó là tuyên bố của cậu bé mười một tuổi người Bỉ sau khi đọc xong tiểu sử của nhà truyền giáo tử đạo Jean Gabriel Perboyre. Thật vậy, Khi qua đời ở Trùng Khánh vào năm 1940, linh mục Vincent Lebbe đã hoàn thành lời hứa mà ngài ấy đã tự hứa với mình khoảng năm mươi năm trước. Ngài ấy đã cống hiến trọn vẹn tuổi trưởng thành của mình cho người Trung quốc Và Giáo hội Công giáo Trung Quốc; đã không ngừng hội nhập sâu sắc vào xã hội Trung Quốc trong cách ăn mặc, ngôn ngữ cũng như truyền thống, đồng thời cũng chia sẻ với họ mọi lo âu, niềm vui, bệnh tật,… và cả những cố gắng vùng vẫy đấu tranh của thời cuộc. Ngài ấy đã trở nên một ví dụ hoàn hảo cho điều mà giám mục Fulton Sheen gọi là “Dry martyr- Tử đạo trắng”.( Thuật ngữ này được sử dụng để diễn tả những người không bị sát hại hoặc bị giết vì đức tin Công giáo, nhưng đã nhẫn chịu những khó khăn như là nghèo khó hoặc bệnh tật để truyền giảng danh Chúa Giêsu Kitô). Cuộc tử đạo của ngài ấy trong bàn tay của những kẻ bách hại không diễn ra nhanh chóng và đầy bạo lực nhưng nó đã kéo dài gần 40 năm. Ngài ấy đã phải chịu đựng nhiều “Ngón đòn” khác nhau từ chính bạn bè cũng như những kẻ chống đối, vì đã dũng cảm chỉ ra những bất công trong Giáo hội cũng như trong xã hội dân sự Trung Quốc.
Ngày nay, linh mục Vicent Lebbe (Lôi Minh Viễn) không phải là một cái tên quen thuộc, ngay cả trong chính cộng đồng Công giáo La Mã, nhưng ngài ấy lại là một trong những nhân vật hàng đầu của Giáo hội Công Giáo hiện đại. Trong tất cả những điều mà người ta có thể nói về linh mục Vincent Lebbe (Lôi Minh Viễn), thì những di sản nổi bật nhất của ngài ấy như linh đạo, sự hội nhập toàn diện với người Trung Quốc, việc hoàn toàn đúng về phía sự thật, và cả sự sáng tạo của ngài ấy trong việc thúc đẩy những hình thức mới của công việc truyền giáo là những thứ không thể bỏ qua, dưới đây là di sản ấy của ngài:
Linh mục Vincent Lebbe trong văn phòng của mình. Khoảng năm 1912-1913.
© Société des Auxiliaires des Missions (SAM) Bộ sưu tập ảnh Trung Quốc,
Thư viện Đại học Whitworth, Spokane.
LINH ĐẠO
Nhà truyền giáo tương lai đến Trung Quốc sinh ngày 19 tháng 8 năm 1877 tại Ghent, Bỉ; và được rửa tội dưới cái tên Frederic Freddy, tên thân thuộc mà gia đình ông thường gọi, là con đầu lòng trong số bảy đứa trẻ. Mẹ ngài ấy, một người Anh gốc Pháp, là một người phụ nữ rất đạo đức và cũng rất sùng đạo. Cha của ngài ấy, một luật sư, người sở hữu một ý thức nhạy bén về công lý và liêm chính. Sự hào phóng của họ đối với người nghèo, lập trường của họ đối với công lý, lòng tốt cũng như sự quan tâm của họ đối với mọi người và những đứa trẻ của họ, cộng với việc thực hành cầu nguyện đều đặn của họ, đã phản ánh rõ nét những niềm tin bên trong của họ. Vincent Lebbe đã học được lối sống đức hạnh ấy từ cha mẹ của ngài, và ngài ấy không bao giờ nhân nhượng thỏa hiệp. Thực tế, sự tận tụy của ngài ấy đối với người nghèo và những người bị áp bức, cái lập trường không lay chuyển của ngài ấy đối với công lý, sự hy sinh và vâng phục của ngài ấy đối với ý muốn của Thiên Chúa, cùng với niềm vui trong sáng và luôn luôn của ngài ấy, là thứ đã gây ấn tượng mạnh mẽ trên những người đã gặp mặt; tất cả những thứ ấy đều được cắm rễ sâu trong tinh thần của Tám Mối Phúc Thật.
Như đã biết từ trước, đứa trẻ Lebbe đã ấn tượng mạnh mẽ bởi tiểu sử của thánh tử đạo Jean Gabriel Perboyre, đến nỗi trong ngày lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức, ngài ấy đã ghép thêm tên của thánh Vincent vào tên của mình để biểu thị quyết tâm noi gương nhà truyền giáo của Tu Hội Vinh Sơn. Do đó, chẳng có gì ngạc nhiên khi thấy ngài ấy, vào tháng 11 năm 1895, đã lên đường đến Paris để gia nhập Tu viện Saint-Lazare, học viện của Tu Hội Truyền Giáo, nơi mà những linh mục thường được gọi là những người bạn hữu của Thánh Vinh Sơn, hoặc các linh mục “Lazaristes” . Khi tới học viện của dòng, Lebbe tự nhận tên của mình với cái tên trong lễ Thêm Sức, và kể từ đó, ngoại trừ gia đình gần gũi, người phương Tây gọi ông là Vincent Lebbe.
Trong suốt hai năm đầu tiên đào tạo, chàng tập sinh trẻ tuổi này đã có được sự nhận thức sâu sắc đối với Thánh Vinh Sơn Phaolo, cha sáng lập của Tu Hội Truyền Giáo Vinh Sơn, và đã quyết định bước theo cha sáng lập. Từ tên của ngài, một người thường nói rằng: “Lòng bác ái không thể hiện bằng hành động là một sự giả tạo”, 2Lebbe đã học cách hòa hợp với thời đại của mình, để nhận định các vấn đề và đưa ra các giải pháp cũng như những cách khắc phục. Khi còn ở học viện, ngài ấy đã viết: “Để công việc truyền giáo có hiệu quả, chúng ta phải hòa hợp với thời đại của mình, thích nghi với các phong tục, ý tưởng và cách diễn đạt của thời đại. Chúng ta phải tham gia vào sự chuyển động của thời đại không phải như một lực lượng đối lập, nhưng đúng hơn là để hướng dẫn thế giới này theo ánh sáng của đức tin và lý trí lành mạnh.” 3Trên đất Trung Hoa, Vincent Lebbe đã phải trả giá đắt vì đã tịnh tiến những lời nói can đảm đó thành hành động, điều đó đã khiến bề trên cũng như nhiều nhà truyền giáo ngoại quốc khác chống lại ngài ấy. Tại học viện thánh Lazare, Lebbe tìm thấy ở Anthony Cotta, một tu sĩ người Ai Cập lớn hơn ngài ấy vài tuổi, như là một người đồng điệu để chia sẻ những lý tưởng của mình. Cotta, người có lòng trân trọng sâu sắc đối với các thư của Thánh Phaolô, đã đóng góp rất nhiều vào việc đặt nền tảng Kinh Thánh cho linh đạo truyền giáo của Lebbe. Những mối quan tâm tông đồ mà Perboyre đã khơi dậy trước kia, kết hợp với ngọn lửa và lòng nhiệt thành của Thánh Phaolô, cùng với sự tận tụy cân nhắc kỹ càng của Thánh Vincent de Paul, tất cả đã hợp lại định hình nên cách tiếp cận của Lebbe đối với cuộc sống truyền giáo. Mối quan hệ thân thiết giữa Cotta và Lebbe ngày càng bền chặt hơn theo năm tháng và kéo dài nó đi qua nhiều đau khổ mà họ tự mang lấy vào thân, khi kiên quyết ủng hộ người Trung Quốc chống lại não trạng ưu tú đang thịnh hành trong cộng đồng truyền giáo.
Vào mùa xuân năm 1898, Lebbe, khi đó là sinh viên triết học năm nhất, đã bắt đầu cuộc gặp gỡ nghiêm túc và kéo dài đầu tiên của mình với mầu nhiệm thập giá khi sức khỏe của ngài ấy bắt đầu suy yếu. Trong vòng hai năm, ngài ấy gần như trở thành một người tàn phế. Ngài ấy phải chịu đựng liên tục những cơn đau đầu khủng khiếp, và đã mắc phải một căn bệnh về mắt khiến cho ngài ấy đôi khi không thể đọc được. Tháng 9 năm sau, hy vọng đến Trung Quốc của ngài ấy dường như bị dập tắt khi bề trên thông báo rằng, tình trạng ốm yếu của ngài ấy không đủ điều kiện để ngài ấy tham gia các chuyến truyền giáo. Thay vào đó, ngài ấy được hoạch định để trở thành giáo sư tại một trong những học viện của Tu Hội ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Tuy thất vọng nhưng vẫn tuân theo những gì mà ngài ấy coi là ý muốn của Chúa, Lebbe đã từ bỏ quyết tâm ban đầu của mình. “Không bám víu vào bất cứ điều gì, không có gì, không có gì ngoài Chúa“, ngài ấy đã đến trường đại học Vincentian ở Roma để tiếp tục học thần học. 4 Đây chỉ là một sự tập dượt cho nhiều lần trong đời ngài ấy khi bị buộc phải gác lại các kế hoạch hoặc từ bỏ những sứ vụ tông đồ đầy hứa hẹn, vì dù chúng có chân thành đến đâu, chúng vẫn là sự lựa chọn của ngài ấy, và có thể không trở thành công việc của Chúa cho đến khi ngài ấy từ bỏ chúng. Rồi thì, thiên Chúa không bao giờ quên làm việc trên nó.
Đầu tiên, Thiên Chúa đã gửi Giám mục Alphonse Favier, Đại diện Tông Tòa ở Bắc Kinh, đến Rome để báo cáo về các sự kiện bi thảm gần đây của cuộc nổi loạn Nghĩa Hòa Đoàn. Lebbe lúc ấy đã thổ lộ với vị giám mục này về ước mơ trở thành một nhà truyền giáo ở Trung Quốc, bất chấp sức khỏe không tốt của bản thân. Giám mục Alphonse Favier đã rất cảm động trước lòng nhiệt thành nồng nhiệt của Lebbe đến nỗi ông đã thuyết phục các bề trên của Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn ở Paris, để cho phép tu sinh đau yếu này đi cùng ông trở về Bắc Kinh. Vào tháng 2 năm 1901, chỉ năm tháng sau khi được yêu cầu từ bỏ ước mơ của mình, Lebbe đã lên thuyền rời Marseilles để đến Trung Quốc.
Khi mùa hè đến, chàng thanh niên ốm yếu mới đến này đã cố gắng hoàn thành chương trình học thần học của mình tại học viện của tu hội ở Bắc Kinh. Và chàng trai trẻ ấy cũng biết rằng các bề trên sẽ không cho mình tiến chức, nếu sức khỏe của bản thân không có dấu hiệu cải thiện. Lebbe sau đó đã làm một tuần cửu nhật kính thánh Jean Gabriel Perboyre, cầu xin thánh nhân cầu bầu cùng Chúa để được chữa lành. Đến cuối ngày thứ chín của việc cầu nguyện và ăn chay, lời cầu xin của Lebbe đã được chấp thuận. Có phải ngẫu nhiên hay không, Lebbe đã được thụ phong linh mục vào ngày 28 tháng 10 năm 1901, vào ngày lễ Thánh Jude, vị thánh bảo trợ của các nguyên nhân tuyệt vọng. Trong suốt quãng đời còn lại, Lebbe thỉnh thoảng vẫn phải chịu đựng những cơn đau đầu, nhưng đôi mắt của ngài ấy không bao giờ làm phiền ngài ấy nữa.
Ba mươi năm sau, một người bạn hỏi ngài ấy rằng: ngài ấy sẽ giới thiệu cương lĩnh linh đạo nào cho các nhà truyền giáo. Linh mục Lebbe trả lời rằng chỉ có một cương lĩnh, tương tự cho tất cả các Kitô hữu, và nó hệ tại ở chỗ “Đừng trì hoãn Sống Phúc Âm trong cuộc sống của chính mình”. “Dựa trên kinh nghiệm tâm linh đã bắt đầu từ lâu trước khi ngài ấy đặt chân đến đất Trung Quốc, sau đó ngài ấy giải thích rằng cương lĩnh này chỉ có thể đạt được thông qua sự từ bỏ hoàn toàn, lòng bác ái chân thực và niềm vui không thay đổi: “toàn hy sinh, thật yêu người, thường vui vẻ” … Hãy lưu ý rằng tất cả sức mạnh của cương lĩnh nằm ở ba từ in nghiêng, bạn sẽ nói với tôi rằng đây không phải là điều gì đó quá mới mẻ, nhưng tôi tin rằng nó đủ để giúp bạn trở thành một vị thánh. Hãy cố gắng một cách chân thành và bạn sẽ sớm thấy rằng toàn bộ Phúc Âm ở đó.” 5
NGƯỜI TRUNG QUỐC GIỮA NHỮNG NGƯỜI TRUNG QUỐC
Phần lớn các nhà truyền giáo Công giáo ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ XX đã rao giảng Phúc Âm với lòng nhiệt thành lớn lao, họ yêu thương và giúp đỡ vô vị lợi cho những người cải đạo mà không nghĩ nhiều đến bản thân. Tuy nhiên, thái độ tâm lý của họ đối với người Trung Quốc lại hoàn toàn khác so với thái độ mà Matteo Ricci và những người bạn đồng hành của ông ấy đã thể hiện vài thế kỷ trước đó. Đương thời, hầu hết các nhà truyền giáo đều vô thức mang theo cảm giác vượt trội và kiêu ngạo mà Thời đại công nghiệp đã mang lại cho châu Âu. Họ nhìn nền văn minh Trung Quốc và người dân của đất nước này như là thứ thấp kém, ghê tởm và đầy rẫy thối nát; họ đối xử với những giáo dân như trẻ con và giữ lập trường không tuân phục các giáo sĩ Trung Quốc. Họ cũng dựa rất nhiều vào sự bảo vệ và can thiệp của các cường quốc phương Tây, đặc biệt là Pháp, để rao giảng đức tin Công giáo của mình. Một số người nhận ra những tác hại đang xảy ra nhưng không thể thấy lối thoát, họ ẩn náu trong niềm tin rằng một ngày nào đó Chúa sẽ giải quyết những vấn đề ấy. Linh mục Lebbe là một trong số rất ít người, bằng lối sống, lời nói và hành động của mình, đã dám kêu gọi và đã mang lại nhiều sự thay đổi.
Ngay trước khi thụ phong, linh mục Lebbe đã nói rõ trong một lá thư gửi cho một trong những người anh em của mình rằng, ngài ấy đã dành cả cuộc đời mình ở bên cạnh người Trung Quốc để trở thành một trong số họ: “Tôi là người Trung Quốc bằng cả trái tim, bằng cả tâm hồn và bằng cả sức mạnh của mình. Trung Quốc là số phận và đất nước của tôi, và người Trung Quốc là anh em của tôi.” 6Để đánh dấu sự chuyển đổi này, ngài ấy đã ký tên dưới bức thư với cái tên tiếng Trung của mình là 雷鳴遠 (Lôi Minh Viễn), có nghĩa là “Tiếng sấm vang dội miền xa” – và ngài ấy, quả thật là một tiếng sấm đối với cộng đồng những nhà truyền giáo nước ngoài tại Trung Quốc.
Linh mục Lebbe đã trở thành “Tất cả mọi thứ cho tất cả mọi người”, trở thành một người Trung Quốc giữa những người Trung Quốc (Chinois avec les Chinois). Từ khi đến Trung Quốc, ngài ấy đã tách mình ra khỏi hầu hết các nhà truyền giáo bằng cách phục trang giống như các linh mục và chủng sinh Trung Quốc mặc thay vì áo chùng thâm theo phong cách phương Tây. Ngài ấy thậm chí còn cạo đầu và để tóc tết dài kiểu Trung Quốc cho đến năm 1912, khi nước cộng hòa Trung Hoa bãi bỏ phong tục này do triều đại Mãn Châu áp đặt.
Ngài ấy di chuyển giống như những người dân thường vậy, từ chối cưỡi ngựa cũng như từ chối ngồi kiệu hoặc xe kéo như hầu hết các nhà truyền giáo khác đã làm. Tuy nhiên, linh mục Lebbe không phải là người từ bỏ mọi tiện ích thiết thực mà phương tiện giao thông đem lại; khi nhìn ra một phương tiện giao thông có thể hỗ trợ đắc lực cho công việc mục vụ của mình mà không phô trương, ngài ấy nhất định sẽ dùng đến nó. Vậy nên, hình ảnh ngài ấy với chiếc xe đạp trên những chuyến hành trình, bất luận dù chỉ là chuyến đi vài phút trong thị trấn hay một chuyến đi dài ở vùng nông thôn, đã trở thành một cảnh tượng quen thuộc vào thời điểm mà phương thức di chuyển này vẫn còn rất hiếm ở Trung Quốc.
Được Thiên phú cho trí nhớ tốt và khiếu âm nhạc, ngài ấy mau chóng tinh thông ngôn ngữ nói và trở thành một trong những người nước ngoài nói tiếng Trung giỏi nhất thời bấy giờ. Sau khi phục hồi thị lực, ngài ấy đã phát triển thói quen dành thời gian để đọc các tác phẩm kinh điển của Trung Quốc và luyện viết bằng bút cọ. Không bao lâu sau, Ngài ấy đã dùng chính thứ ngôn ngữ ấy, không chỉ để thực hiện các sứ vụ mục vụ truyền thống như hướng dẫn những người dự tòng, thăm viếng người nghèo và người bệnh,…; mà còn khai mở ra những phương thức mới để đi đến với mọi ngóc nghách của xã hội Trung Quốc bấy giờ. Ví dụ, vào năm 1911, tại Thiên Tân, linh mục Lebbe đã nghĩ đến việc mở các nơi diễn thuyết công cộng như một cách để hòa nhập vào cuộc sống của thành phố này và đưa giáo hội đến gần hơn với công chúng. Các bài nói chuyện về tôn giáo được linh mục Lebbe, các linh mục Trung Quốc và những giáo dân có học thức thuyết trình vào mỗi buổi tối. Những nơi diễn thuyết này, chẳng mấy chốc đã lên đến con số 8, và đã cung cấp một diễn đàn để thảo luận về các vấn đề xã hội và đạo đức đương đại dưới ánh sáng của Phúc Âm, và cứ như thế giới thiệu Chúa Kitô với người dân Trung Quốc. Những cuộc cải đạo, đặc biệt là trong giới trí thức, đã tăng lên với tốc độ hàng trăm người mỗi tháng tại một số hội trường. Sự nổi tiếng của linh mục Lebbe lớn đến mức, vào năm 1914, ngài ấy được mời đến nói chuyện tại các hội trường công cộng phi Công giáo lớn nhất trước hàng nghìn người Trung Quốc, bao gồm cả các viên chức cấp cao của thành phố. Năm sau, khi Nhật Bản trao cho Trung Quốc một công hàm có chứa hai mươi mốt yêu cầu, việc tuân thủ sẽ biến đất nước này thành một quốc gia chư hầu, linh mục Lebbe đã có một số bài phát biểu về tình yêu đất nước của mình. Một trong những bài diễn thuyết ấy có tựa đề “Cứu lấy đất nước“, trong đó mô tả cả những gì Trung Quốc như một quốc gia cần phải có, lẫn giáo lý của Giáo Hội Công Giáo về sự cứu rỗi, bài diễn thuyết ấy đã được đón nhận nồng nhiệt đến nỗi khoảng ba mươi nghìn bản in đã được bán ra sau đó trên đường phố.7
Linh mục Lebbe với sự tinh thông ngôn ngữ bản địa của mình cũng đã mở đường cho việc Giáo hội Công giáo sử dụng phương tiện truyền thông rao giảng Phúc âm. Năm 1912, với sự giúp đỡ của người bạn và cũng là nhà văn học nổi tiếng Anh Liễm Chi, linh mục Lebbe bắt đầu xuất bản Quảng Ích Lục, tờ báo Công giáo đầu tiên của Trung Quốc. Tờ báo này nhanh chóng được bán ở hầu hết các giáo phận Công giáo, nó không chỉ đăng tin tức về các hoạt động của Công giáo trên khắp Trung Quốc mà còn có các bài viết của Lebbe nhằm mục đích khai sáng cho người Công giáo về bổn phận và trách nhiệm của họ với tư cách là công dân của nước Cộng Hòa Trung Hoa mới. Ba năm sau, được khuyến khích bởi thành công của tờ báo Quảng Ích Lục, Lebbe đã chọn ngày 10 tháng 10, ngày quốc khánh Trung Quốc, để ra mắt tờ nhật báo Công giáo đầu tiên của Trung Quốc có tên là Báo Ích Thế. Vì tính chính xác của tin tức và quan điểm độc lập của nó, Tờ báo này ngay lập tức đã vang danh trong cộng đồng người Trung Quốc, bao gồm cả tín hữu và lương dân. Trong vòng ba tháng, nó đã trở thành tờ nhật báo hàng đầu ở miền bắc Trung Quốc.
Việc diễn thuyết ở các hội trường công cộng và việc xuất bản báo Công giáo chỉ là hai trong số nhiều cách mà linh mục Lebbe đã khuyến khích công việc tông đồ giáo dân. Năm 1909, ngài ấy và một nhóm nhỏ các nhà truyền giáo ở Thiên Tân đã thành lập Hiệp hội Truyền bá Đức tin, trở thành hạt nhân cuối cùng dẫn đến sự hình thành của phong trào Công giáo tiến hành trên toàn quốc.
Năm 1928, linh mục Lebbe đã được thành toàn một trong những điều ước tha thiết nhất của mình khi đặt chân đến Trung Quốc, ngài ấy đã nhận được quốc tịch Trung Hoa Dân Quốc. 5 năm sau, ngài ấy đã tiến thêm một bước nữa để hoàn toàn trở thành người Trung Quốc; ngài ấy đã rời khỏi Tu Hội Truyền Giáo Thành Vinh Sơn để gia nhập Dòng Tiểu đệ Thánh Gioan Tẩy Giả, một dòng tu bản địa mà ngài ấy mới thành lập. Khi cuộc chiến chống lại quân xâm lược Nhật Bản leo thang, linh mục Lebbe với tư cách là một công dân Công giáo Trung Quốc đã ủng hộ sự nghiệp của Trung Quốc một cách vô điều kiện và không ngần ngại thể hiện lòng yêu nước của mình bằng hành động. Ngài ấy và các tiểu đệ đã tổ chức và huấn luyện các đội y tá và cáng thương, và sau đó cử họ ra chiến trường để cứu chữa những người bị thương. Trong vòng vài năm, tổ chức đã có tới hai mươi nghìn người đàn ông khỏe mạnh tham gia.
Vào tháng 3 năm 1940, linh mục Lebbe trở thành nạn nhân của những căng thẳng liên tiếp giữa Quốc dân đảng và Cộng sản Trung Quốc. Chính vì thế, những chuyến đi liên tục đã gây tổn hại cho ngài ấy. Cơ thể ngài ấy liên tục phải chịu đựng chứng viêm khớp và những cơn sốt rét. Trong thời gian sáu tuần bị Cộng sản giam giữ, sức khỏe của ngài ấy càng suy giảm nhanh chóng, các cơ quan nội tạng của ngài ấy bắt đầu suy yếu, khuôn mặt chuyển sang màu vàng nhạt; ngài ấy còn hài hước nói: “Nhìn này, cuối cùng tôi cũng vàng rồi! tôi hoàn toàn là người Trung Quốc rồi!” 8Hai tháng sau khi được thả, vào ngày 24 tháng 6 năm 1940, lễ Thánh Gioan Tẩy Giả và Chân phước Jean Gabriel Perboyre, ngài ấy qua đời trong vòng tay của những người bạn Trung Quốc. Hơn cả việc thông thạo tiếng Trung hay cách ăn mặc, chính tinh thần của ngài ấy đã giúp ngài ấy thoát khỏi sự xa lạ và đồng nhất với mọi thứ của người Trung Quốc cho đến hơi thở cuối cùng.
CUỘC KHỔ NẠN VÌ CÔNG LÝ
Từ khi còn nhỏ, linh mục Lebbe đã cố gắng sống theo lời dạy của Bài giảng trên núi. Trong số tất cả các Phúc thật, “Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính” (Mt 5:10) là điều đầu tiên xuất hiện trong tâm trí khi xem xét sự nghiệp truyền giáo của ngài ấy. “Tôi sẵn sàng chết hơn là tiếp tục sống đời dở dở ương ương, không dám gọi ra bản chất của thiện và ác, thì không thể toàn tâm toàn ý đứng về phía những người bị áp bức, ngay cả khi tôi là người duy nhất như thế trên thế giới, tôi đơn giản sẽ hiến dâng một ví dụ về sự phẫn nộ của kitô hữu.” 9
Để tố cáo mọi loại bất công, linh mục Lebbe đã phải chịu đựng nỗi đau của sự cô lập, của hiểu lầm, của tẩy chay và cả lưu đày. Trên thực tế, từ “Công lý” và các từ đồng nghĩa của nó là những thuật ngữ xuất hiện thường xuyên nhất trong thư từ của ngài ấy. Ngài ấy đặc biệt không khoan nhượng khi nói rằng: miễn là người nước ngoài vẫn nắm quyền kiểm soát, thì Giáo hội Công giáo ở Trung Quốc sẽ không bao giờ thịnh vượng. Để có thể đứng vững ở Trung Quốc, giáo hội cần phải có những nhà lãnh đạo người Trung Quốc. “Trung Quốc quy về người Trung Quốc, và người Trung Quốc quy về Chúa Kitô” là một trong những khẩu hiệu yêu thích của ngài ấy.
Điều gì đã khiến lập trường của linh mục Lebbe về công lý, đã gây ra những khổ đau đặc biệt cho ngài ấy vậy? Có thể khẳng định, lập trường của linh mục Lebbe liên quan đến chủ nghĩa yêu nước của người Trung Quốc, chế độ bảo hộ và giáo sĩ bản địa, hầu như trái ngược hoàn toàn với quan điểm đang thịnh hành trong cộng đồng những nhà truyền giáo. Trong mười sáu năm đầu tiên ở Trung Quốc, linh mục Lebbe thường bị bề trên khiển trách, bởi vì không chỉ đối xử với giáo sĩ Trung Quốc như những người bình đẳng, mà còn không ngừng thúc đẩy cái mà những người đó gọi là “ý tưởng không tưởng“, chính là thành lập một Trung Quốc mới với một giáo hội Trung Quốc bản địa. Những bề trên, những nhà truyền giáo đó không thích sự ủng hộ của linh mục Lebbe đối với chủ nghĩa yêu nước của người Trung Quốc, một thứ mà họ coi là phong trào nguy hiểm và gây rối loạn. “Điều mà các bề trên không thể tha thứ cho tôi là niềm tin của tôi rằng: nếu chúng ta muốn mang lại sự cứu rỗi cho người Trung Quốc, chúng ta phải, đặc biệt là ngày nay, không chỉ yêu người Trung Quốc, mà còn phải yêu cả Trung Quốc nữa, giống như bất kỳ ai yêu đất nước của mình – giống như một người Pháp yêu nước Pháp vậy… Điều mà họ thấy thậm chí còn khó tha thứ hơn là niềm tin của tôi rằng: chế độ bảo hộ có hại cho Trung Quốc và Giáo Hội và đã xảy ra như vậy… Và điều mà có lẽ họ thấy khó tha thứ nhất là niềm tin của tôi rằng việc thành lập một hàng giáo sĩ hoàn toàn bản địa là bổn phận đầu tiên của chúng ta và việc tôi nói rằng tôi sẽ chết trong hạnh phúc nếu tôi có thể hôn chiếc nhẫn của vị giám mục thứ hai của Trung Quốc.” 10
Vụ việc Lão Tây Khai năm 1916 là giọt nước tràn li khiến căng thẳng giữa linh mục Lebbe và bề trên của ngài ấy bùng nổ. Nói cách vắn ngọn, khi ấy, giám mục người Pháp của giáo phận Thiên Tân đã xây dựng Nhà Thờ Chính Tòa của mình trên một mảnh đất trong một khu vực mới phát triển, được gọi là Lão Tây Khai; khu đất này nằm cạnh, hoàn toàn không phải là một phần của Khu tô giới Pháp. Rắc rối bắt đầu khi lãnh sự Pháp, người đã xây dựng một con đường nối khu tô giới với Nhà Thờ Chính Tòa; với sự hậu thuẫn của một số nhân vật có tiếng nói trong nhà thờ này, đã cố gắng sáp nhập mảnh đất nằm dọc theo con đường đó và đánh thuế các cửa hàng và nhà ở của người Trung Quốc. Chính quyền Bắc Kinh, cùng với những nhân vật có uy tín và người dân địa phương, đã phản đối kịch liệt điều này. Linh mục Lebbe và tờ báo Công giáo của ngài ấy, Báo Ích Thế, đã đứng về phía người Trung Quốc và công bố một bức thư ngỏ yêu cầu Ngài Lãnh Sự từ bỏ các yêu sách của ông ta. Nhưng giám mục, bị Ông Lãnh Sự gây sức ép, đã yêu cầu các giáo sĩ và báo chí Công giáo duy trì sự trung lập nghiêm ngặt trong vụ việc này. Trong khi đó, những người giáo dân Trung Quốc liên tục thỉnh cầu linh mục Lebbe phải làm cái gì đó, và ngài ấy đã có thể không thành thật nói rằng lãnh sự Pháp đã đúng. Nhưng cuối cùng, linh mục Lebbe đã đứng về phía sự thật, quyết định kháng cáo trực tiếp lên Công Sứ Pháp tại Bắc Kinh thông qua một lá thư cá nhân, trong đó ngài ấy tha thiết đề nghị vị bộ trưởng Pháp can thiệp vì danh dự của nước Pháp và Giáo Hội. Thật đáng tiếc, lá thư này đã phản tác dụng. Phản ứng của vị bộ trưởng này là giận dữ viết một bức thư gửi cho vị giám mục Thiên Tân, và đổ lỗi cho ngài ấy, vì đã cho phép một trong những linh mục của bản thân viết một lá thư “Thô lỗ và gần như phản bội” như thế. 11 Linh mục Lebbe vì không tuân theo chỉ thị của giám mục là giữ thái độ trung lập trong vấn đề này, sau đó đã được yêu cầu một nhiệm vụ mới, được sai đến một khu vực truyền giáo cách Thiên Tân chín trăm dặm. Và sau đó, vào năm 1920, ngài ấy đã bị trục xuất trở về châu Âu.
Linh mục Lebbe dường như đã thất bại, nhưng về lâu dài, lập trường và thái độ của ngài ấy lại nhận được sự chứng thực của Tòa thánh. Điều này bắt đầu với việc một nhóm nhỏ các linh mục Trung Quốc và các nhà truyền giáo nước ngoài đã viết thư gửi đến Thánh bộ Loan Báo Phúc Âm để ủng hộ Lebbe. Sau đó, vào năm 1917, người bạn của linh mục Lebbe là linh mục Anthony Cotta đã chuyển cho tổng giám mục của Thánh bộ Loan Báo Phúc Âm một bản ghi nhớ dài do cả hai người soạn thảo, thúc giục Tòa Thánh chấm dứt tình trạng “Bảo hộ tôn giáo“, mà các nhà truyền giáo nước ngoài đã duy trì nơi giáo hội Trung Quốc; đồng thời bức thư này cũng trình bày sơ lược lòng nhiệt thành cũng như khả năng của những linh mục Trung Quốc, những người có thể đảm nhận vai trò lãnh đạo trong một Giáo Hội Bản Địa mới. Tài liệu này đã thu hút sự chú ý của hồng y tổng giám mục bộ Truyền Bá Phúc Âm và Đức Giáo hoàng Benedict XV. Tông thư Maximum Illud được công bố vào tháng 11 năm 1919 cũng chứa đầy những ý tưởng và đôi khi là những lời chính xác trong bản ghi nhớ của 2 linh mục Cotta và Lebbe. Khi nói chuyện với các nhà truyền giáo và người đứng đầu bộ truyền giáo, Giáo Hoàng lên án hành động của những người có ý định “Tăng cường sức mạnh của đất nước mình hơn là vương quốc của Chúa” và than phiền về sự vắng mặt của các linh mục bản xứ ở các vị trí lãnh đạo. Mặc dù không bao giờ được nhắc đến tên, nhưng giáo hội truyền giáo ở Trung Quốc là mục tiêu chính được nhắm đến của lá thư.
Giáo hoàng tiếp theo, Đức Pius XI, đã đi xa hơn nữa, đã tách Giáo hội Công giáo ở Trung Quốc khỏi sự kiểm soát của Pháp bằng cách thành lập một phái đoàn tông đồ thường trực tại Bắc Kinh và cử Giám mục Celso Costantini đến để đảm nhiệm vị trí này vào năm 1922. Bốn năm sau, Đức Giáo Hoàng Pius XI quyết định đã đến lúc một số giáo hội địa phương trong các vùng truyền giáo cần có những nhà lãnh đạo bản địa. Đó là nội dung chính trong thông điệp Rerum Ecclesiae vào tháng 2, và bức thư Ad Ipsis Pontificatus Primordiis vào tháng 6 đã nêu rõ rằng Trung Quốc là mục tiêu chính của Đức Giáo Hoàng. Vào ngày 28 tháng 10 năm 1926, Đức Giáo Hoàng đã thực hiện bước đi quan trọng là phong chức cho sáu giám mục người Trung Quốc, trong đó có ba người được linh mục Lebbe giới thiệu. Linh mục Lebbe đã có mặt tại buổi lễ diễn ra tại Nhà thờ chính tòa Thánh Peter ở Rome, vào đúng ngày kỷ niệm 25 năm ngày thụ phong của ngài ấy. Vài tháng sau, Lebbe lên đường trở về Trung Quốc để phục vụ dưới quyền của Giám mục mới được thụ phong (孫德楨) Tôn Đức Chân. Mặc dù quá trình bản địa hóa giáo hội Trung Quốc vẫn diễn ra chậm chạp và khó khăn, nhưng nó đã đi đến mức không thể quay lại.
NGƯỜI SÁNG LẬP HỘI DÒNG
Đối với linh mục Lebbe, việc thành lập một hệ thống giáo sĩ bản địa chỉ là một trong nhiều bước cần thực hiện để đưa đến một Giáo hội Công Giáo bén rễ sâu vào nền văn hóa và xã hội của Trung Quốc. Đáp lại lời kêu gọi của Rerum Ecclesiae, để xem xét lợi thế của việc thành lập các hội dòng mới phù hợp hơn với tinh thần, tính cách và nhu cầu của các quốc gia khác nhau, linh mục Lebbe đã thành lập hai dòng tu bản địa Trung Quốc vào năm 1928 – một dành cho nam giới, được gọi là Dòng Tiểu đệ Thánh Gioan Tẩy giả, một dành cho nữ giới, được gọi là Dòng Tiểu muội Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu. Những người đàn ông và phụ nữ này được đào tạo theo các quy tắc nghiêm ngặt nhất của truyền thống “Xitô nhặt phép” và “Cát minh”, sau đó được gửi đến theo các nhóm nhỏ để rao giảng Phúc âm, đồng thời kiếm sống từ thành quả của đôi tay mình. Nhiệm vụ và thách thức của họ là đóng góp vào công cuộc đổi mới xã hội của Trung Quốc.
Linh mục Lebbe cũng tận tâm dạy dỗ những người Kitô hữu, cần phải đem đức tin và giáo dục vào việc phục vụ đất nước. Với suy nghĩ này, ngài ấy đã mở các giảng đường và giúp thành lập Phong trào Công giáo Tiến Hành tại Trung Quốc; ngài ấy đã làm việc mật thiết với những người Công giáo giáo dân nổi tiếng như Anh Liễm Chi và Mã Tương Bá, đồng thời hỗ trợ những nỗ lực của họ để mở một trường đại học Công giáo. Trong thời gian lưu vong ở châu Âu năm 1920-1927, linh mục Lebbe còn tổ chức Hiệp hội Thanh niên Công giáo Trung Quốc cho người Trung Quốc đang học tập ở hải ngoại.
Vào năm 1927, ngay trước khi trở lại Trung Quốc, linh mục Lebbe cũng truyền cảm hứng cho việc thành lập hai nhóm truyền giáo vô cùng độc đáo. Đầu tiên chính là Hội Phụ tá Truyền giáo đã mở ra một con đường cho các linh mục giáo phận ở châu Âu, họ là những người giống như linh mục Lebbe, mong muốn hoàn toàn phục vụ các giám mục bản xứ trong phạm vi tài phán của những giáo hội mới được thành lập. Họ trở thành dấu hiệu sống động của mối quan hệ giữa các giáo hội chị em dựa trên sự bình đẳng, chia sẻ và phục vụ lẫn nhau và là những người đi đầu trong những linh mục của Tông huấn Hồng Ân Đức Tin . 12 Các nhóm trợ tá giáo dân truyền giáo là những giáo dân nữ giúp đỡ các linh mục của Hội Phụ tá Truyền giáo. Những người nữ này cũng là dấu hiệu của những điều sắp đến, vì họ được thành lập như một nhóm giáo dân truyền giáo (một nhóm sống đời thánh hiến) trong thời điểm mà hầu hết các dòng tu nữ được Giáo hội Công giáo công nhận vẫn là chuẩn mực của đời sống thánh hiến. Các Phụ tá Giáo dân này đã mở đường cho sự phát triển và đa dạng hóa các nhóm truyền giáo giáo dân giữa những người đàn ông và phụ nữ trong Giáo hội Công giáo khoảng hai thập kỷ sau đó. 13
PHẦN KẾT LUẬN
Di sản của Vincent Lebbe là cuộc đời tận tụy không khoan nhượng cho sự phát triển của giáo hội địa phương Trung Quốc. Từ lâu trước khi từ “Hội nhập văn hóa” được tạo ra, toàn bộ cuộc đời truyền giáo của linh mục Lebbe đã là một minh chứng cho tinh thần và ý nghĩa bao hàm trong từ đó.
Linh đạo đặc biệt của linh mục Lebbe là “Toàn hi sinh, Thật yêu người, Thường vui vẻ” 14đã cho ngài ấy sự tự do để mạnh dạn và kiên quyết phản bác người khác trong khi vẫn khiêm nhường và vâng lời. Nhờ đó, ngài ấy đạt được mức độ hiệu quả và có tính thuyết phục cao.
Sự nhạy cảm của linh mục Lebbe đối với văn hóa Trung Hoa ít nhất cũng ngang bằng nếu không muốn nói là vượt trội hơn Matteo Ricci. Ngài ấy hoàn toàn đồng nhất bản thân với những người được ngài ấy chọn, trở thành một trong số họ, một người Trung Quốc giữa những người Trung Quốc. Lập trường chống lại bất công và hành động mang lại nhiều thay đổi của ngài ấy giống như tiếng sấm sét vang dội trong cơn mưa mang lại sự sống: chúng làm rung chuyển cộng đồng truyền giáo nước ngoài ở Trung Quốc và bắt đầu một quá trình đổi mới trong toàn bộ Giáo hội Công giáo.
Về lâu dài, Lebbe đã mở đường cho việc bãi bỏ lệnh lên án các nghi lễ Trung Quốc vào năm 1939, sự công nhận hoàn toàn đối với một Giáo hội Công giáo địa phương của Trung Quốc vào năm 1946, và nhiều hơn thế nữa. Thật vậy, Đức Hồng y Leon-Joseph Suenens, một trong những nhân vật chính của công đồng Vatican II, đã mô tả Lebbe là “Người đi trước những gì sẽ trở thành định hướng chính của công đồng”. 15
GHI CHÚ
1 đoàn thể tu hành Công giáo này, được Vincent de Paul thành lập năm 1625, có mục tiêu đầu tiên là truyền giáo tại quê nhà ở vùng nông thôn nước Pháp. Tuy nhiên, sau đó, công tác truyền giáo ở nước ngoài ngày càng trở nên quan trọng, cho đến thế kỷ XIX, đây là hoạt động chính của tu hội.
2Paul Goffart và Albert Sohier, eds., Lettres du Pere Lebbe (Tournai: Casterman, 1960), 7 tháng 2 năm 1900, tr. 26.
3Ibid , ngày 1 tháng 5 năm 1900, trang 30.
4Ibid , ngày 25 tháng 12 năm 1899, trang 23; câu nói này được nêu lại ngày 26 tháng 8 năm 1931, trang 276.
5Ibid , ngày 26 tháng 8 năm 1931, trang 278,280.
6Ibid , ngày 13 tháng 7 năm 1901, trang 39.
7Jacques Leclercq, dịch bởi George Lamb, Thunder in the Distance: The Life of Pere Lebbe (New York: Sheed & Ward, 1958), trang 141.
8Ibid , trang 318.
9Lettres du Pere Lebbe, ngày 20 tháng 9 năm 1939, 307.
10Ibid , ngày 18 tháng 9 năm 1917, trang 153-54. Khi Lebbe viết bức thư này, giám mục Trung Quốc duy nhất là 羅文藻 (La Văn Tảo), được thụ phong vào năm 1685.
11Ibid , tháng 6 năm 1916, trang 101-3.
12Vào ngày 21 tháng 4 năm 1957, Đức Giáo hoàng Piô XII đã ban hành thông điệp Fidei Donum (Hồng Ân Đức Tin), trong đó ngài kêu gọi tất cả các giám mục đích thân tham gia vào hoạt động truyền giáo toàn cầu của Ngài. Ngài đặc biệt khuyến khích các giám mục phương Tây chia sẻ “Hồng ân đức tin” bằng cách để một số linh mục giáo phận của họ có thể phục vụ trong một khoảng thời gian cho các giám mục châu Phi. Việc chia sẻ linh mục giữa các giáo phận này hiện đang diễn ra trên quy mô toàn thế giới.
13Những lời kêu gọi ban đầu của Tòa thánh về việc phát triển một tông đồ truyền giáo giáo dân có thể bắt nguồn từ các thông điệp Evangelii Praecones (tháng 6 năm 1951) và Fidei Donum (tháng 4 năm 1957) của Đức Giáo Hoàng Piô XIl. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã làm theo thông điệp Princeps Pastorum (tháng 11 năm 1959) và lời kêu gọi các tình nguyện viên giáo dân của giáo hoàng đến Châu Mỹ Latinh vào tháng 6
14Lettres du Pere Lebbe, ngày 11 tháng 2 năm 1932, 280.
15Vincent Thoreau, Le tonnerre qui chante au loin (Brussels: Didier Hatier, 1990), tr. 161.
Nguồn: https://famvin.org/en/2025/01/09/the-legacy-of-vincent-lebbe/
Đôi nét về tác giả:
Jean-Paul Wiest, Cựu Giám đốc nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu và học tập truyền giáo tại Maryknoll, New York . Lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là Giáo hội Công giáo La Mã ở Trung Quốc, tập trung vào các tương tác văn hóa và tôn giáo Trung-Tây . Nguồn: International Bulletin of Missionary Research, tháng 1 năm 1999.