XUÂN PHONG THẬP NIÊN (春風十年) 下卷 – Tập 2

Tác giả: TÀO LẬP SAN

Dịch giả: Tiểu đệ Mẫn Đường, CSJB.

link tải file: https://csjbvn.net/wp-content/uploads/2025/04/xuan-phong-thap-nien-tap-2.docx

ĐỀ TỰ CỦA HỒNG Y VU BÂN

Năm 1977 là năm kỷ niệm linh mục Lôi Minh Viễn tròn 100 tuổi. Một số bạn hữu sinh thời của linh mục Lôi đã thảo luận phải cùng với nhau làm gì đó để kỷ niệm thời khắc này. Linh mục Tào Lập San nói với chúng tôi, ngài ấy dự định đem “Xuân Phong Thập Niên” đăng tải trên Nguyệt San Thánh Hóa in thành sách, làm thành một tiết mục trong rất nhiều hoạt động kỷ niệm. Mọi người nghe xong đều vỗ tay tán thành.

Sau đó không lâu, Ngài ấy liền đem bản thảo giao cho tôi, xin tôi viết lời tựa. Với tình nghĩa và sự liên hệ nhiều năm của tôi với linh mục Lôi, cũng như các đệ tử của ngài ấy, tôi làm sao có thể chối từ đây?

Quá khứ, tôi cũng đã nhìn thấy vài mẩu chuyện Xuân Phong Thập Niên trên Nguyệt San Thánh Hóa. Khi ấy, Tôi đã cảm thấy những mẩu chuyện nhỏ này thật sự rất động lòng người. Hiện tại, nhận được bản thảo này, tôi liền một mạch đọc nhiều câu chuyện trong bản thảo, khiến cho cảm nhận của tôi cũng theo đó mà trở nên sâu sắc hơn, cảm giác như linh mục Lôi một lần nữa tái xuất nhân gian, hiển hiện sinh động trước mắt tôi vậy.

Tuy nhiên, Do mối quan hệ thân thiết của tôi và tác giả của tập sách, tôi không tiện đánh giá hay bình phẩm tác phẩm này, nhưng tôi không thể không nói mấy lời từ tận đáy lòng.

Đầu tiên, tôi phải thừa nhận, tập sách này không phải  tác phẩm văn học, cũng không phải tác phẩm lịch sử. Đúng như tên gọi, nó là ghi chép cảm nhận của tác giả đối với những lời nói cũng như hành động của vị Ân Sư; thứ được viết ra là tự sự, chứ không phải là bình luận, đọc lên sẽ khiến cho độc giả có cảm giác chân thực. Mặt khác, bởi vì tác giả và nhân vật chính trong sách là thầy trò, nên cảm giác thân thiết lại càng dạt dào gấp bội. Khi mời tôi viết đề tựa cho tập sách này, tác giả cũng muốn tôi sửa tiêu đề sách thành “Tinh Thần Minh Viễn”, nhưng tôi vẫn kiên quyết muốn giữ nguyên tên gọi ban đầu, chính là vì để giữ lại “Hồn cốt chân thực” vốn có của tập sách này.

Tiếp theo, đối với văn phong của tác phẩm, cũng giống như chính con người tác giả vậy, vô cùng chất phác và tự nhiên; mặc dù có người nói nó quá ư “Khẩu ngữ hóa”, nhưng đọc (nghe) lên lại chẳng hề cảm thấy “Thô ráp khó chịu”, nhưng vẫn là cảm giác nhẹ nhàng trôi chảy, khiến cho người ta tự nhiên sẽ cảm thấy “Thống khoái”.

Một điểm khác nữa có sức hấp dẫn rất lớn của quyển sách này là nó luôn luôn lấy phương pháp “Đến điểm là dừng” để tường thuật những câu chuyện động lòng người. Nó không hề có sự “Tô son trét phấn”, đơn giản như sự chất phác của tác giả vậy. Chính vì thế, những câu chuyện này không những không khiến cho độc giả cảm thấy chán ngán, mà còn luôn cảm thấy cái “Dư vị bất tận” khiến người ta chìm vào trong câu chuyện được kể. Bởi những thứ tác giả kể lại đều là những thứ mà tác giả đã dùng chính đôi mắt mình thấy, chính đôi tai mình nghe, đồng thời cũng chính là những thứ mà chính con tim tác giả đã đích thân thấu cảm và thể nghiệm, ngõ hầu phản ánh trung thực cái tinh thần của linh mục Lôi, như người ta vẫn nói: “Hành động thì có sức mạnh hơn lời nói”. Vậy nên, cuốn sách này sở dĩ có nhiều chỗ động lòng người, nguyên nhân của nó cũng chính tại điểm này, là thứ mà tựa đề cuốn sách này truyền tải vậy.

Đức Hồng y Vu Bân

Ngày 23 tháng 4 năm 66 Dân Quốc

LỜI MỞ ĐẦU

 Nhiều năm về trước (1955), khi “Lôi Minh Viễn Truyền Kỳ” – bản tiếng Pháp được xuất bản, sự kiện ấy đã làm dấy lên một làn sóng không lớn nhưng cũng không hề êm dịu  trong giới Linh mục Âu châu. Lúc bấy giờ, Giáo hội Đài Loan cũng ít nhiều bị ảnh hưởng bởi sự kiện này. Đương thời “Lôi Minh Viễn Truyền Kỳ” – bản tiếng Trung vẫn chưa thành hình, nhưng không thể nói là không chịu ảnh hưởng bởi sóng gió này. Có một vị đồng đạo Âu châu mà tôi rất thân thiết đã nói với tôi: Anh “theo” linh mục Lôi Minh Viễn nhiều năm như vậy, đối với đời sống tu đức của ngài ấy đương nhiên cũng là tường tận hơn ai hết; anh có thể biên chút ít, giới thiệu khuôn mặt chân thực của ngài ấy, để mọi người có thể chiêm ngưỡng và học đòi con đường tu đức của ngài ấy. Tôi tin là việc này sẽ ích lợi lớn hơn nhiều về việc “Uốn nắn nhân tâm” cũng như “Phát huy con đường thánh thiện ấy” so với “Lôi Minh Viễn Truyền Kỳ”, và hơn nữa, tuyệt đối sẽ chẳng khuấy động một con bão mới đâu.

Cùng với sự cổ vũ của vị đồng đạo ngoại quốc này, tôi đã thử viết một hai đoạn, đăng tải trên tuần báo “Đời Sống Giáo Hữu”. Có lẽ vì thời cơ vẫn chưa chín mùi, nên tôi không thể không dừng lại.

Năm năm sau, sóng gió của “Lôi Minh Viễn Truyền Kỳ” bản tiếng Pháp dần dần lắng xuống, bản tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Đức, tiếng Ý cũng nối tiếp ra đời, cuối cùng bản tiếng Trung cũng đã diện kiến mọi người vào năm 1963 (không lâu sau đó, bản tiếng Việt cũng được xuất bản ở Sài Gòn), không ít bạn bè lại thúc đẩy tôi viết đại loại như “Minh Viễn Giai Thoại” hoặc “Lôi Công Tu Đức”. Tôi đã đáp ứng thử viết, nhưng trên thực tế lại chưa có khởi động gì?

Sau khi nguyệt san “Thánh Hóa” được xuất bản ở Đài Trung, có người lại khơi chuyện cũ: tại sao không đem “Đời sống tu đức” của linh mục Lôi đăng tải chút ít, cung cấp cho mọi người một chút chất liệu và gương mẫu để “Thánh hóa” đời sống bản thân? Tôi đã lo lắng suy nghĩ một thời gian, và quyết định dùng chút thời gian rảnh rỗi, sau những công việc thường nhật, để viết vài mẩu chuyện thử xem thế nào.

Người viết bất tài, không dám ngông cuồng nói “Tu đức”, chỉ đem “Cái nền giáo dục tốt đẹp” mà chính mắt đã thấy, chính tai đã nghe, cũng như đích thân nghiệm thấy trên người linh mục Lôi, liền theo trí nhớ và tất cả cảm xúc của bản thân viết xuống không theo một thứ tự nào cả, mỗi đoạn mỗi đề, dài ngắn khác nhau, tự thành một đơn vị, mỗi đoạn với nhau cũng không nhất định có tính liên quan.

Tôi bắt đầu theo linh mục Lôi từ ngày 18 tháng 6 năm thứ 19 Dân Quốc, tới ngày 24 tháng 6 năm 29 Dân Quốc, ngày linh mục Lôi trút hơi thở cuối cùng, tổng cộng là mười năm lẻ một tuần. Vì thế, trong tổng thể của “Xuân Phong Thập Niên”, bắt đầu dùng bút danh “Theo Minh Viễn” để viết ra tất cả các cảm nhận của bản thân đối với linh mục Lôi.

Không lâu sau khi đăng tải mấy bài viết “Xuân Phong Thập Niên” trên nguyệt san “Thánh Hóa”, xuất phát từ phản ứng tốt đẹp vượt kỳ vọng của không ít độc giả, có người viết thư, có người gặp mặt trực tiếp, đều cho rằng mỗi lần xuất bản đều quá ít, vẫn chưa thỏa mãn cái may mắn của họ; Cũng có độc giả tiến cử bài viết kém cỏi của tôi cho những tập san khác; Có độc giả còn gửi thư nói: mỗi lần đọc xong “Xuân Phong Thập Niên”, tinh thần của linh mục Lôi luôn khiến anh ta rơi nước mắt…

Sau khoảng 5 năm như thế, có người đã đề xuất đem “Xuân Phong Thập Niên” xuất bản thành sách. Trên nguyên tắc, tôi cũng đồng ý với đề xuất này, nhưng đương thời cảm thấy thứ đã viết ra e rằng quá ít, vả lại cũng chưa có cơ hội thích hợp, cho nên vẫn lần lữa chẳng có xuất bản thành sách. Năm nay vừa vặn 100 năm ngày sinh của linh mục Lôi, mà “Xuân Phong Thập Niên” cũng đã viết được mười năm, sự tình được kể lại cũng vừa vặn viết tới cái chết của linh mục Lôi. Đây chính là cơ hội tốt nhất, để tôi quyết định xuất bản tập sách này, làm món quà kỉ niệm tuổi một trăm của linh mục Lôi, cũng là để báo đáp sự kỳ vọng và yêu mến nồng hậu của quý độc giả.

Quyển sách này được xuất bản với sự trợ giúp đắc lực của không ít bạn bè: đầu tiên là sự cổ vũ của rất nhiều độc giả; tiếp theo là sự đầu tư và cổ vũ của ông Tống Học Nhân, Hoa kiều Tây Đức, ngoài ra còn có ông Hoàng Hồng Ân, Tổng Biên Tập Nguyệt San “Thánh Hóa” đã góp phần cho công việc chuẩn bị xuất bản, và rất nhiều những người khác đã trực tiếp hay gián tiếp giúp đỡ xuất bản, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến quý vị.

Tôi cũng xin cảm ơn hồng y Vu Bân đã đề tự cho cuốn sách này, để tác phẩm thêm phần sáng rõ rực rỡ.

Chân Phúc Viện Đài Trung,

Ngày 25 tháng 4 năm 66 Dân Quốc

Lôi Minh Viễn có lẽ là một cái tên xa lạ đối với phần lớn người Việt Nam, Mặc dù hội dòng do ngài ấy sáng lập đã hiện diện ở nước ta từ khi nước ta vẫn còn chia cắt (1963).

Là một tu sỹ của bổn hội, hẳn bản thân người dịch cũng ước mong cho danh thơm tiếng tốt, cho nhân đức trổi vượt của ngài ấy được biết đến, ngõ hầu Danh Chúa Giêsu được cả sáng. Tuy nhiên, sách vở viết về ngài ở Việt Nam tương đối hạn chế, ngay cả trong chính hội dòng mà ngài đã sáng lập.

Vì thế, Với sự động viên của một của một số bạn hữu, và ước mong đem chút sức mọn để bạn hữu gần xa, đặc biệt là các anh chị em theo bước chân ngài ấy trong hai hội dòng thánh Gioan Tẩy Giả và thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu tại Việt Nam được biết thêm về vị cha chung đáng kính này. Người dịch với chút tài mọn cố gắng đem tinh thần của ngài ấy lan tỏa, hy vọng có thể nhóm lên trong lòng mọi người, ngọn lửa ngài ấy đã đốt lên nơi mảnh đất Trung Hoa, để Danh Chúa được vinh danh.

Hy vọng, mọi người sẽ bỏ qua và đón nhận những thiếu xót của bản thân người dịch.

Xin chân thành cảm ơn tất cả mọi người!

Tiểu Đệ Mẫn Đường

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU.. 7

ĐẢNG CỘNG SẢN THAM GIA ĐẠI HỘI CẦU NGUYỆN.. 14

TỨ BỀ KHỐN ĐỐN.. 17

KIÊNG ĂN CÁCH KINH NGƯỜI. 20

CHỤI ĐÓI CŨNG ĐÁNG.. 25

KHÔNG BIẾT XẤU HỔ RỒI! 28

TÔI CÓ BIỆN PHÁP.. 31

KHEN NGỢI MÃI KHÔNG THÔI. 34

ĐỒ NHẬT BẢN, VÔ TÍCH SỰ! 38

MỘT NGƯỜI CŨNG KHÔNG BỎ LẠI. 40

NGÀN CÂN TREO SỢI TÓC.. 44

MỘT NGÀY BẬN RỘN.. 48

LỄ PHỤC SINH THÊ LƯƠNG.. 51

NGỦ LÀ THƯỢNG SÁCH.. 54

TIẾNG SẤM CÀNG VANG CÀNG XA.. 56

CHÂN PHÚC VIỆN THEO QUÂN.. 59

MỘT TRÒ ĐÙA NHO NHỎ.. 62

THU HOẠCH CỦA LỄ NGŨ TUẦN.. 66

NGHE LỆNH NHƯ MÙ.. 71

CHI PHỐI HOÀN CẢNH.. 74

KHÔNG TĂNG LƯƠNG, NHƯNG TĂNG CÔNG VIỆC.. 76

KHÔNG PHẢI TƯỢNG ĐẤT, LÀM SAO PHẢI  SỢ MƯA RỪNG.. 80

TRỔ ĐÒNG THOÁT XÁC.. 81

CHÍ LỚN CHƯA THÀNH.. 83

KHÔNG ĐÁNG MỘT QUẢ BOM… 85

NHÀ BÀ LIÊU? NHÀ ÔNG LÔI? HAY CHÂN PHÚC VIỆN?. 89

MỞ RỘNG CÔNG VIỆC CỨU QUỐC.. 91

NHẤT ĐỊNH KHÁNG CHIẾN TỚI CÙNG.. 94

NẮM BẮT CƠ HỘI. 97

BÁO ÍCH THẾ PHÁT HÀNH TRỞ LẠI. 102

MỞ RỘNG TÂM LÝ CHIẾN.. 105

LẤY BẤT BIẾN ỨNG VẠN BIẾN.. 108

TỰ NHIÊN TRONG KHÓ XỬ.. 111

CÓ BẤT AN NHƯNG KHÔNG NGUY HIỂM… 114

LẤY ĐỨC BÁO OÁN.. 119

ĐỪNG BUỒN KHI KHÔNG CÓ TIỀN.. 122

CHỤI ĐƯỢC KHỔ MỚI LÀ HẢO HÁN.. 125

ĐẶT NỀN MÓNG CÔNG VIỆC.. 128

HOÀN THÀNH TỔ CHỨC ĐOÀN THỂ.. 130

HOA TRÁI ĐẦU MÙA.. 132

CHA CỦA SƯ ĐOÀN 12. 135

TẬN HƯỞNG NIỀM VUI TRONG CÔNG VIỆC.. 139

LÀM VIỆC CHÍNH LÀ HƯỞNG THỤ.. 140

MUỐN CỨU QUỐC, TRƯỚC TIÊN PHẢI CỨU DÂN.. 143

SÁCH BÁO VŨ KHÍ SẮC BÉN CỦA KHÁNG CHIẾN.. 146

TỐT CHƯA TỪNG CÓ.. 151

MƯỜI NGÀY Ở CÔN MINH.. 156

CỘT LỬA NÚI TRUNG ĐIỀU.. 165

MẪU THÂN, … NHÌN ĐẾN CHÚNG CON NHÉ! 167

TU SĨ KHÔNG MANG VŨ KHÍ. 170

CON RUỒI CŨNG TRƯỢT TÉ.. 173

MỘT CÂY NẾN CHÁY HAI ĐẦU.. 175

SỨC “ĂN” KINH NGƯỜI! 178

GIẶC OA KHÔNG CHẾT, THỀ KHÔNG TRỞ VỀ.. 180

MƯA RÀO TRONG CƠN ĐẠI HẠN.. 183

CHÂN THÀNH ĐỘNG LÒNG NGƯỜI. 186

BẢO HỔ LỘT DA.. 191

CÔNG VIỆC CỨU TẾ KINH NGƯỜI. 194

CỘNG SẢN ĐẢNG KHÔNG ĐÁNG KẾT GIAO.. 196

CUỘC GẶP BẤT NGỜ CỦA HAI VỊ LINH MỤC HỌ LÔI. 201

THÀNH QUẢ KỲ DIỆU.. 206

KIẾN NẰM TRÊN CHẢO NÓNG.. 210

TÙ NHÂN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN.. 215

TRUYỀN PHÚC ÂM TRONG NGỤC.. 220

OANH TẠC MỆT MỎI. 224

NHẤT ĐỊNH NÓI SỰ THẬT.. 228

VUI BUỒN LẦN LỘN.. 233

LỆ ANH HÙNG.. 238

CHIẾC GIỎ XÁCH TRÂN QUÝ.. 243

CUỘC CHIẾN TRÊN GIƯỜNG BỆNH.. 249

THỜI CƠ MẤT ĐI. 254

CHỮA BỆNH CŨNG LÀ CÔNG VIỆC.. 258

CHIM SỢ CUNG.. 263

CUỘC ĐIỆN CẤP BÁCH.. 267

TẠM BIỆT LẠC DƯƠNG.. 271

HỒI QUANG PHẢN CHIẾU.. 272

QUAN TÂM VÀ LO LẮNG.. 277

PHỤ ĐÔ ỦY THÁC.. 282

MỘT CHÚT HY VỌNG.. 286

LINH MỤC LÔI, NGÀI SẼ KHÔNG CHẾT ĐÂU?. 291

HY VỌNG CUỐI CÙNG.. 296

HẸN GẶP LẠI Ở THIÊN ĐƯỜNG.. 301

CHẾT CŨNG KHÔNG THÔI. 306

ĐÁM TANG SAU KHI CHẾT.. 311

Phụ lục 1: MỘT TRÁI TIM TRUNG QUỐC.. 317

Vì Trung Quốc mà sinh. 319

Trở thành người Trung Quốc. 319

Một quả tim Trung Quốc. 322

Tại sao làm người Trung Quốc. 326

Tẫn tụy Trung Hoa. 327

Chết vẫn không thôi 330

Phụ Lục 2: Lý Lịch Giản Lược Của Linh Mục Lôi Minh Viễn. 332

ĐẢNG CỘNG SẢN THAM GIA ĐẠI HỘI CẦU NGUYỆN

Sau khi chọc thủng Đông Dương Quan chiếm lấy Lộc An và Tương Viên, quân địch cũng tạm thời ngừng tiến công để chỉnh đốn toàn quân. Quân ta nhân cơ hội này cũng thừa cơ xây dựng lực lượng, đợi chờ ngày phản kích. Vì vậy, từ sau khi linh mục Lôi trở lại, công việc trong quân cũng không quá căng thẳng. Trong thời kì mà cục diện thế chiến tương đối bình yên này, sau khi hoàn thành hàng loạt công việc thường ngày, chúng tôi mỗi tối đều tập hợp lại nghe linh mục Lôi giảng Thánh Kinh, kể chuyện, thông báo tin tức, hoặc thảo luận những vấn đề cuộc sống,…

Ngày nọ, linh mục Lôi kể cho chúng tôi nghe một tin tức rất đặc biệt, khiến người nghe khó lòng có thể ngay lập tức tin tưởng. Ngài ấy nói: “Mấy ngày trước, cha trên đường từ đại hậu phương trở lại tiền tuyến, có đi qua Hồng Động, cha đã tới làng Mã Mục thăm hỏi bạn hữu, chính là giám mục Thành Ngọc Đường. Ngài ấy đang hoạch định làm một buổi cầu nguyện để tưởng nhớ những chiến sĩ vì nước vong thân, đồng thời cầu nguyện cho kháng chiến thắng lợi. Ngài ấy đã hy vọng cha có thể lưu lại mấy ngày, hiệp trợ ngài ấy tổ chức. Phần cha, cha cũng rất vui mừng, nên liền lập tức đáp ứng”.

Tin tức tổ chức buổi cầu nguyện vừa truyền ra, tổng tư lệnh Chu Sa, Quân Đoàn 18 (quân đoàn của cộng sản đảng) đang đóng quân gần đó cũng đã nghe tin. Anh em đoán xem, ông ta có thái độ như thế nào đối với buổi cầu nguyện sắp diễn ra này?

— Ông ta muốn nghiêm cấm cử hành!

— Anh em đoán sai rồi! đúng giờ, ông ta đã dẫn hơn 30 cán bộ chính trị đến tham gia, và còn quyên góp 100 đồng, đương thời giá trị của 100 đồng rất cao, không thua kém lương cả năm của một quân nhân bình thường.

Lần cầu nguyện này, do giám mục Thành chủ trì đại lễ, còn linh mục Lôi là người phụ giúp. Sau khi lễ nghi kết thúc, Chu Đức rất mừng rỡ tiến đến bắt tay linh mục lôi, và nói: “Chuyện quá khứ đã qua rồi; sau này chúng tôi sẽ không mang hiềm khích và có xung đột với Công Giáo nữa, nếu không may phát sinh hiểu lầm, Chu Đức tôi đảm bảo sẽ thuận lợi dàn xếp giải quyết….

Theo quan điểm của tôi”, linh mục Lôi tiếp tục đáp lời: “Cộng Sản Trung Quốc và Cộng Sản Quốc tế không giống nhau, dưới đại kỳ kháng chiến cứu quốc, toàn quốc trên dưới một lòng, giáo dân và Cộng Sản Đảng như thế cũng có thể trở thành bạn bè, hợp tác khăng khít”.

Chúng tôi nghe xong, liền vỗ tay rền như sấm.

Mấy ngày sau, quân đoàn trưởng Quân Đoàn 3 Tăng Vạn Trung triệu tập toàn thể quan binh Quân Đoàn (chủ yếu là Sư Đoàn 7 và Sư Đoàn 12) tổ chức trò chuyện, khích lệ tinh thần kháng chiến. Đội cứu thương chúng tôi lại được sắp xếp ở hàng đầu tiên, ngay chính giữa ba quân.

Sau khi mọi người đã sẵn sàng, quan chỉ huy hô một tiếng “Nghiêm!”. Người xuất hiện trước mắt chúng tôi không ngờ lại chính là Chu Đức, đi cùng với quân đoàn trưởng Tăng, bước lên đài giảng thuyết.

Chu Đức khi ấy đang kiêm nhiệm chức phó trưởng quan của Chiến Khu 2 (Sơn Tây). Ông ta cũng dùng thân phận này để nói chuyện với chúng tôi. Chủ đề của buổi nói chuyện là “Làm thế nào để đánh du kích?” tài ăn nói của ông ta quả thật không tệ, ngay cả diễn thuyết gia như linh mục Lôi cũng rất tán thưởng khả năng diễn thuyết tuyệt vời của ông ấy.

Khi ông ta đang diễn thuyết, cũng đặc biệt nhắc đến linh mục Lôi, ông ta gọi linh mục Lôi là “Bạn hữu quốc tế”. Một vị bạn hữu ngoại quốc lại yêu mến Trung Quốc như vậy, chẳng sợ hy sinh, tới tiền tuyến tải cứu thương binh, thực sự khiến chúng tôi (quan quân Cộng Sản) cảm động không thôi.

Chúng tôi nghe xong, lúc đó cũng cảm thấy Cộng Sản Đảng cũng không tệ như lời đồn!?

Hai năm sau, ai có thể ngờ linh mục Lôi lại bị chính Cộng Sản Đảng bắt giam, chịu muôn vàn tra tấn, và cũng vì thế mà qua đời.

TỨ BỀ KHỐN ĐỐN

Tháng 3 năm 27 Dân Quốc, sau khi quân địch theo ba lối tấn công Đông Nam Tấn, phía ta cũng sai phái Quân Đoàn 3, bao hàm Sư Đoàn 7 và Sư Đoàn 12, bao vây một dải Tương Viên và Vũ Hương. Đương thời, Chúng tôi ngoài việc chưa thể đạt được liên kết với hai Sư Đoàn 120 và 115 của Cộng Quân ở khu vực núi Thái Hành, thì cũng hoàn toàn đoạn tuyệt tuyến giao thông đường bộ với đại hậu phương. Vì thế, cấp dưỡng của ba quân hoàn toàn dựa vào tiền giấy tiếp tế từ trên không, để quân nhân có thể mua lương thực tại chỗ sử dụng.

Thực phẩm mặc dù đã được giải quyết phần nào rồi, nhưng vấn đề thương binh lại trở thành vấn đề lớn nhất đối với chúng tôi. Người bị thương nhẹ, chúng tôi có thể chữa trị tại chỗ, sau khi khỏi thì tiếp tục trở về đội; nhưng những người bị thương nặng thì xử lý thế nào đây? không thể cả ngày cáng bọn họ theo đội đánh du kích được! Linh mục Lôi vì việc này cũng đã hao tổn không ít trí lực. Ngài ấy sau nhiều lần bàn thảo với quân đoàn trưởng Tăng, cũng thu được một số kết quả khả quan. Một trong số đó là  quyết định thành lập “Bệnh viện dã chiến” tạm thời ở trấn Đại Hữu, huyện Vũ Xương, để làm nơi thu nhận các quân nhân bị thương nặng. Quyết định này đã khiến gánh nặng của đội cứu thương chúng tôi giảm nhẹ rất nhiều. Chúng tôi có thêm nhiều thời gian hơn, nhiều nhân lực hơn, và cả nhiều cáng cứu thương hơn nữa,… để thuận lợi và nhanh chóng hơn cứu thêm nhiều người nữa trên hỏa tuyến.

Dưới thế cục “Tứ bề khốn đốn” này, quân đoàn trưởng Tăng quyết định dùng “Chiến thuật du kích” chiến đấu đến cùng với quân địch. Ngài ấy lấy Lữ Đoàn 34, Sư Đoàn 12 làm quân cơ động, thường đóng trại xung quanh bộ chỉ huy. Ngoài ra, sư trưởng Đường, Sư Đoàn 12 đương thời vẫn ở đại hậu phương, vì thế đội cứu thương chúng tôi liền trực tiếp phát sinh liên hệ với quân đoàn trưởng tăng. Ngài ấy thường triệu gọi linh mục Lôi đến thương lượng bàn thảo các vấn đề liên quan đến thương binh.

sau khi Chu Đức, một tướng lĩnh cộng sản, nguyên là phó trưởng quan Quân Khu 2, lên đài nói chuyện với toàn thể quan binh Quân Đoàn 3 không lâu, thì đoàn trưởng Dương, Trung Đoàn 68 đến thăm linh mục Lôi. Sau khi hàn huyên chuyện cũ chuyện mới, đoàn trưởng Dương cho biết thời cơ thành lập “Đội quân nhân thường phục” đã đến, vạn phần trông ngóng linh mục Lôi từ trong đội cứu thương, tuyển lựa và giới thiệu cho bản thân khoảng 40-50 người giáo dân có kinh nghiệm tác chiến, mưu trí mạnh dạn, đặc biệt là có đức tin chân thành, để tổ chức thành một cánh quân nhân ngầm, trực thuộc Trung Đoàn 68, tòng quân thực hiện những công tác chiến đấu có tính cơ động nhất. Linh mục Lôi không chút do dự đáp ứng xử lý ý nguyện trên.

Khi trung đoàn trưởng Dương cáo từ, linh mục Lôi lập tức triệu tập ba trung đội cứu thương thông báo và mời gọi họ trong tinh thần tự nguyện gia nhập “Đội quân nhân ngầm”.

Trung đội trưởng Đội Thứ 3 Ngụy Bảo Đức, 30 tuổi, là vị quân nhân đã thân chinh qua rất nhiều chiến dịch khác nhau. Anh đã đã tự nguyện xung phong báo danh tham gia đầu tiên. Thế là các giáo dân khác cũng lần lần báo danh, đặc biệt thành viên Trung Đội thứ 3 là năng động nhất. Tới buổi tối cùng ngày, số người tự nguyện tham gia đã lên đến 70, vượt quá mức mong đợi. vì thế, những thanh niên này tiếp tục trải qua thêm một lần thẩm định nữa, cuối cùng đã chọn ra 40 thanh niên theo yêu cầu. Sau khi tuyển lựa xong, linh mục Lôi liền ủy nhiệm Ngụy Bảo Đức trở thành người lãnh đội; đồng thời, cũng phái ba vị tu sĩ giữ chức hộ sĩ và chỉ đạo tinh thần; rồi đem tất cả giao cho trung đoàn trưởng Dương chỉ huy, đi tác chiến thực hiện nhiệm vụ mới.

KIÊNG ĂN CÁCH KINH NGƯỜI

Đương thời, bộ chỉ huy Quân Đoàn 3 và Lữ Đoàn 34 chọn đóng quân ở những nơi cao, cách Tương Viên hơn mười cây số về phía bắc, một mặt là để dễ dàng giám sát động tĩnh của quân địch ở nội thành, một mặt cũng tăng cường bố trí quân vào những nơi trọng yếu, để chuẩn bị phản công tác chiến.

Linh mục Lôi nhân lúc thế cục chiến tranh bình lặng, một ngày nọ, ngài ấy đã dắt theo tu sĩ Lỗ Tư (lúc đó là hộ sĩ, sau này thăng chức làm quan chức phụ trách y tế) tới trấn Đại Hữu- huyện Vũ Hương quan sát bệnh viện dã chiến. Ngày công khai hoàn tất trở về đội cứu thương cũng vừa vặn là thứ sáu, là thời gian ăn chay theo như luật định trong Mùa Chay. Trước khi khởi hành, ngài ấy nhường cho bạn đường (tu sĩ Lỗ Tư) ăn uống no nê, còn bản thân ngài ấy thì vẫn là bụng đói leo núi.

Lúc chạng vạng tối, tôi đang điều phái công việc cáng thương, xa xa nhìn thấy linh mục Lôi mặt mày tái mét, đang loạng choạng bước tới. Tôi theo phản xạ chạy đến đón tiếp ngài ấy; nhưng ngài ấy một lời cũng chẳng nói, chỉ dùng tay ra hiệu “Lên đồ ăn”. Bạn đường của ngài ấy đem câu chuyện kể trên nói với tôi, tôi lập tức tìm huynh trưởng Bảo Lộc, biểu ý nhanh chóng chuẩn bị đồ ăn cho linh mục Lôi. Tu sĩ Bảo Lộc một mặt lệnh cho đầu bếp chuẩn bị đồ ăn, một mặt liền chạy tới bên đường mua một cân mứt hồng đem đến.

Sau 30 phút, tôi đến xem linh mục Lôi. Kỳ lạ! Một cân mứt đã không còn thấy đâu nữa, đồ ăn trên bàn cũng chỉ còn lại một chút mà thôi! Linh mục Lôi giữ chay rất nghiêm túc, nhưng lượng ăn rất lớn, khiến cho người nghe câu chuyện này, đều há miệng mà khen: ngoạn mục, không có gì sánh bằng.

Tôi cảm thấy bất mãn đối với cách giữ chay gần như là ngược đãi bản thân của linh mục Lôi. Đợi ngài ấy ăn xong cơm tối, liền rất thành thật mang tâm tình thành tâm nói ra những lời can gián ngài ấy.

— Cha! Giáo Hội không có quy định cách giữ chay như vậy đâu!

— Giữ chay, đó không phải là quy định chuyên cho Giáo Hội Lữ Hành.

— Nhưng, thân thể của cha quá chịu khổ rồi.

— Đó chính là mục đích của giữ chay.

— Vừa rồi cha đói nói không nên lời, như vậy sẽ gây trở ngại cho công việc ah!

— Ai nói vậy? Con đi triệu tập anh em, cha muốn giảng Thánh Kinh.

Sau 15 phút, chúng tu sĩ tập hợp tại nơi cầu nguyện tạm thời của “Chân Phúc Viện Theo Quân”, theo thường lệ sau khi hát xong giờ kinh của ngày đó, linh mục Lôi mới bắt đầu giảng giải Thánh Kinh cho chúng tôi. Nhưng hôm nay, vào lúc này, khi cơn đói đã đi qua, Ngài ấy đã lấy lại thứ tinh thần phong phú vốn có, giọng nói của ngài vang như tiếng chuông, dáng vẻ cũng không hiện ra chút ít mệt mỏi thao thao bất tuyệt giảng Thánh Kinh cho chúng tôi.

Tinh thần ấy thật khiến chúng tôi cảm phục sát đất!

CHỤI ĐÓI CŨNG ĐÁNG

Thế cục chiến tranh đã yên tĩnh một thời gian. Tảng sáng ngày 8 tháng 4, quân địch đột nhiên từ Tương Viên ồ ạt bắc tiến, mưu đồ tiến chiếm huyện Vũ Hương. Bộ chỉ huy quân ta sớm đã nhận được tin tức này, và dự định lợi dụng những nơi cao, để tấn công quân địch một trận ra trò. Vì thế, Quân Đoàn Trưởng liền ra chỉ định, cắt cử Lữ Đoàn 34 đảm trách nhiệm vụ gian khổ này.

Trung đoàn trưởng Dương, Trung Đoàn 68 đích thân tới hỏa tuyến chỉ huy. Ngài ấy đem “Đội quân nhân ngầm” mới thành lập, mai phục hai bên đường lớn trong núi, còn quân chính quy được bố trí mai phụ con đường chính qua núi, chuẩn bị đón đầu tấn công địch.

Đội quân nhân ngầm” lần đầu giáp mặt với quân địch, mọi người ai cũng đều dũng cảm quên mình, không màng tới bản thân, hăng hái chấp hành nhiệm vụ. Bọn họ lợi dụng chiến thuật du kích, thực thực ảo ảo, dương đông kích tây, khiến quân địch mệt bở hơi tai, do dự cả hơn 5 tiếng mà cũng không giám tiến về phía trước. Trong thời gian năm tiếng đồng hồ ngắn ngủi ấy, đội quân nhân ngầm của ta đã có 8 người hy sinh oanh liệt, đội cứu thương cũng có một thành viên bị trọng thương, chính là tu sĩ Loại Cung. Trong khi đó, thương vong của quân địch, tính toán khắt khe nhất cũng đã lên đến hơn hai trăm người.

Tới  giữa trưa, quân địch dưới sự yểm hộ của pháo sơn và pháo cối nhất mực xua quân tiến thẳng qua núi. Quân chính quy của ta ở nơi cao cũng lâm trận, dùng súng trường và súng máy tập trung hỏa lực càn quét quân địch đang cố xâm phạm. Những tên thảo khấu Nhật Bản ngoan cố dường như cũng thừa quyết tâm giành thắng lợi, nên kẻ trước vừa ngã xuống, thì kẻ sau đã nhanh nhẹn tiến lên tiếp tục tấn công quân ta như vũ bão. Tình hình chiến sự vô cùng ác liệt, số lượng thương binh có thể thấy đã xếp hàng đống, hàng đống chất chồng.

Bắt đầu từ buổi trưa, tất cả quan y, hộ sĩ của đội cứu thương đều được động viên đi băng bó đắp thuốc cho thương binh; nhân viên cáng thương vận chuyển thương binh tới lui như là trẩy hội. Tới khoảng 4h chiều, chỉ nói quân nhân trọng thương đã ghi nhận lên đến hơn 120 người. Nhân viên cáng thương hiện tại cũng không vượt quá con số 300 người, con số thực sự quá ít so với nhu cầu trước mắt của toàn mặt trận. Dưới nguyên tắc “Cứu người số 1, thương binh chí thượng” những dân phu trong khu vực tranh chấp cũng như những vùng phụ cận cũng không ngừng được vận động tham gia vào công tác cứu thương.

Tới 5h chiều, ngay cả người thống lĩnh dân phu tải thương cũng đều tìm không ra ai nữa rồi. Linh mục Lôi liền lệnh cho cả tu sĩ Nguyệt Vượng, người quản lý bếp núc, nhanh chóng lên đường tham gia vào nhiệm vụ tải thương. Anh ta hài hước cảm thán: “Vì thương binh, chúng ta không cần ăn cơm luôn rồi!”.

Tu sĩ Nguyệt Vượng dắt theo hơn 10 đội cáng thương lao vào mặt trận tải thương binh về nơi an toàn. Lúc họ vừa mới đi ra khỏi làng, một trái đạn pháo không biết từ đâu bắn tới, vừa vặn rơi xuống giữa đoàn người. Một người trong số họ đã chết ngay tại chỗ, nhưng kỳ lạ là thương binh nằm trên cáng lại bình yên vô sự, không bị ảnh hưởng gì. Tu sĩ Nguyệt Vượng cũng không may bị vỏ đạn xé toạc da đầu, máu me chảy đầy khắp mặt mũi. Anh ấy sờ sờ đầu của bản thân, cười nói: “Vẫn còn khỏe!”, liền thay thế người chết cáng thương binh chạy như bay. Chi tiết ấy nhất thời cũng chuyển thành một giai thoại vô cùng kỳ thú lưu truyền trong quân.

Linh mục Lôi sau khi nghe biết  biểu hiện anh hùng của tu sĩ Nguyệt Vượng, vui mừng nói: “Vì thương binh, cha chịu đói, anh em đổ máu, thực sự đáng giá mà!

KHÔNG BIẾT XẤU HỔ RỒI!

Tính đến ngày 8 tháng 4 năm thứ 27 Dân Quốc, trong chiến dịch ngăn chặn quân địch tiến quân ở phía bắc Tương Viên – Sơn Tây, Quân ta mặc dù thương vong nặng nề, nhưng cũng thu được nhiều tín hiệu lạc quan, đã phát huy rất lớn tác dụng của chiến tranh du kích, và đã làm tiêu hao một lượng lớn nhân lực và vật lực của quân địch.

Bộ chỉ huy chiến dịch Đông Nam Tấn vì nghĩ cho toàn bộ cục diện cuộc chiến, nên hoàng hôn ngày 8 tháng 4 đã hạ lệnh Lữ Đoàn 34 ngừng việc chống cự, thoái lui tới những nơi cao ở phía đông đường lớn, nhường đường cho quân địch dọc theo đường lớn tiến vào chiếm đóng Vũ Hương, rồi sau đó quân ta tổ chức một trận vây diệt có tính quyết định, và phần còn lại là lịch sử. Với những gì đã xảy ra, lịch sử đã đóng ấn sách lược này là một nước đi vô cùng đúng đắn.

Đội cứu thương chúng tôi trước tiên tập kết tại trấn Tây Doanh chờ lệnh. Ngôi miếu trong trấn giờ đây đã chứa đầy thương binh, phải làm sao đây?

Nghĩ tới nghĩ lui, Tôi liền mạnh dạn đi xin chỉ thị của quân đoàn trưởng. Ngài ấy liền phái hai vị phó quan hiệp trợ chúng tôi, đồng thời cũng cắt cử hơn trăm dân phu cáng thương binh đi theo bộ chỉ huy quân đoàn. 2h đêm hôm ấy, quân lệnh truyền xuống: “Xuất phát!”, chúng tôi lại theo bộ chỉ huy quân đoàn hành quân lên một ngọn núi cao gần đó, và dừng lại ở một thôn nhỏ, một mặt giám sát động tĩnh quân địch, một mặt cũng sắp đặt và chỉnh đốn quân.

Ngày hôm sau, trấn Tây Doanh nhìn từ xa là một đám khói dày đặc bao phủ khắp không trung. Điều này chứng tỏ quân địch đã ở đó, và lưu lại những hành động bạo lực vô cùng man rợ, như đốt nhà của dân thường,…

Buổi trưa hôm đó, bỗng nhiên có mấy vị tu sĩ và giáo dân đội cứu thương bàng hoàng chạy đến bộ chỉ huy quân đoàn, bọn họ là những người hôm qua đã hộ tống thương binh tới bệnh viện dã chiến. Bọn họ báo cáo trấn Đại Hữu sáng nay cũng đã bị quân địch chiếm đóng, tất cả thương binh và nhân viên ở bệnh viện dã chiến đều đã chạy tứ tán, nương nhờ đồng đội hoặc tự tìm đường sống cho bản thân.

Lại nói, thôn trang mà bộ chỉ huy quân đoàn đang đóng quân lạ thay không có bất kỳ cái giếng nước nào. Thôn dân ở đây, nhà nhà đều tự chuẩn bị cho bản thân những hồ nước, để dự trữ và tích lũy nước mưa sử dụng cho những nhu cầu hằng ngày. Tháng 4 ở phương bắc chính là mùa khô hạn, nước và thực phẩm tồn trữ trong thôn vốn dĩ đã không nhiều, nay đột nhiên lại tăng thêm đội quân gấp trăm lần thôn dân, khiến cho lương thực và nước uống trở thành một vấn đề hết sức nghiêm trọng. Trước tình hình ấy, quân đoàn trưởng ra lệnh: bất cứ ai cũng không được rửa mặt.

Đương thời vẫn còn mấy vị tu sĩ và quân nhân đội cứu thương đi trấn Đại Hữu chuyển thương binh vẫn chưa quay lại. Bởi vì bị quân địch đột kích tứ tán, nên chúng tôi cũng không biết họ đã chạy về phương trời nao. Linh mục Lôi đối với sự an toàn của họ thì vạn phần lo lắng. Tình phụ tử của ngài ấy, khiến ngài ấy chốc chốc lại đến rìa thôn, mắt ngấn lệ ngóng về phương xa. Tôi nhìn thấy ngài ưu sầu như vậy, cũng muốn để ngài ấy thoải mái một chút, liền hướng về ngài nói đùa: “Cha à! Cha khóc sao? Khả năng là không có nước rửa mặt rồi!”. Tôi chẳng hề nghĩ tới, ngài ấy đáp lại còn hài hước hơn: “Đâu có biết xấu hổ đâu!”. Người đứng bên cạnh đều cười phá lên.

TÔI CÓ BIỆN PHÁP

Tối ngày mùng 9, Quân đoàn trưởng Tăng cho mời linh mục Lôi đến trao đổi. Tôi may mắn cũng cùng đi với linh mục Lôi đến gặp ông ta. Vừa gặp mặt, Quân đoàn trưởng đã vội vã nói với chúng tôi, trấn Đại Hữu thất thủ rồi! không biết phải chuyển thương binh đến đâu nữa; đường đến đại hậu phương lại càng là con đường chết, không thể tiến theo con đường đó. Trầm ngâm giây lát, Quân đoàn trưởng tiếp tục nói: “Đánh du kích, chúng tôi không sợ; đối với việc sắp xếp ổn thỏa cho thương binh, tôi e là bản thân không có biện pháp rồi”.

— Linh mục Lôi chẳng cần nghĩ ngợi đáp: “Quân đoàn trưởng! ngài yên tâm! Tôi có cách.”

— “Vậy thì, tất cả thương binh do ngài toàn quyền xử lý nhé!”  Quân đoàn trưởng nói một hơi.

Ra khỏi bộ chỉ huy quân đoàn, tôi rất lo âu và gần như trách cứ linh mục Lôi:

— Cha à! Cha to gan liều mạng vậy! Cha cuối cùng có cách gì thế?

— Thương binh là sinh mệnh của chúng ta. Để cứu mạng của mình, con sẽ luôn nghĩ ra cách thôi!

— Cha à! Cha cuối cùng có biện pháp cụ thể nào không?

— Cứ làm thì có biện pháp; không làm thì mãi mãi sẽ không có biện pháp.

— Làm! Nhưng làm rồi mà vẫn như cũ, chẳng có lối thoát, thì phải làm thế nào?

— Thì chết cùng với thương binh!

Sau khi linh mục Lôi gợi lên cái biện pháp sau cùng, tôi cúi đầu im thim thít, nhưng nội tâm vẫn cảm thấy sự nghi hoặc rất lớn. Linh mục Lôi rất biết quan sát sắc mặt người khác, ngài ấy nhận thấy sự bất an của tôi, liền lập tức dạy cho tôi nghe một bài học lớn về triết lý nhân sinh.

Ngài ấy nói:

Cổ nhân nước ta dạy: tác chiến cần phải dùng “Thế trận sinh tử”. Và cũng lại nói: “Trí chi tử địa nhi hậu sanh” (nghĩa là tìm đường sống trong chỗ chết). Khi cha còn ở Thiên Tân truyền giáo, Hội Hồng Thập Tự đã triệu tập một buổi họp với sự có mặt của nhiều thân sĩ, để quyên góp phí thuốc men cho bệnh nhân nghèo. Chúng thân sĩ chỉ nói với hội mà không xuất tiền, cha vì để cổ vũ mọi người, đã to gan lớn tiếng nhận góp 700 đồng, khiến cho mọi người giật nảy người. Kỳ thực, trên người cha lúc đó không xu dính túi, cũng không biết đi đâu để tìm khoản tiền lớn ấy. Cha làm như vậy là đem bản thân đặt vào tử địa, cắt đứt đường lui, vì thế không thể không nhìn về phía trước mà phấn đấu.

Cha trở về nhà thờ, trong tim cũng cảm thấy bất an, cũng sợ “Gặp trở ngại”. Nhưng đã nhấc bút nhận góp 700 đồng rồi, thì không thể thất tín với người. Thế là cha đã bắt đầu cố gắng, trước tiên gọi điện cho Lãnh sự quán Bỉ Quốc đóng ở Thiên Tân, báo cáo với ngài ấy chuyện quyên góp, đồng thời xin ngài ấy trợ giúp. Ngài ấy không ngừng trách mắng cha quá khoa trương, nhưng lại đáp ứng cho cha 200 đồng. Cha sau đó cũng mặt dày cầu cứu Tổng Giám đốc Ngân hàng Hoa Bắc, ông ta cũng nói cha làm việc quá liều lĩnh hấp tấp, những cũng đã cho cha 300 đồng. Cha cũng đi xin một vài chỗ nữa,… kết quả, cha được hơn 800 đồng”.

Cha nói “Cùng chết với thương binh”, con có thể yên tâm, sẽ không chết đâu, chúng ta lại sẽ cố gắng, và tìm ra biện pháp cứu thương binh.

KHEN NGỢI MÃI KHÔNG THÔI

Có người nói linh mục Lôi là “Kẻ điên”, cũng có người nói ngài ấy là “Quái nhân”; nhưng cũng có người nói ngài ấy là “Thánh nhân”, là “Người của Thiên Chúa”. Có người hỏi quan điểm của tôi về linh mục Lôi là như thế nào? tôi trầm ngâm rồi nói: ngài ấy chí ít cũng là “Kỳ nhân”! Quả thật, phải là kỳ nhân mới giải quyết vấn đề như thế. Biện pháp mà ngài ấy đề ra để giải quyết vấn đề thương binh thật sự đã khiến cho người có mặt ở hiện trường khen ngợi mãi không thôi.

Mùa xuân năm 27, khi chúng tôi theo quân đánh du kích cứu giúp thương binh, linh mục Lôi một mặt bảo đảm với Quân đoàn trưởng Tăng: một mình đảm trách tất cả các vấn đề liên quan đến thương binh; một mặt truyền lệnh cho chúng tôi: không cho phép để mất bất cứ thương binh nào! Tôi âu lo quá phận, đối diện với sự liều lĩnh gần như là quá mạo hiểm của ngài ấy mà lo lắng không thôi; nhưng linh mục Lôi lại điềm tĩnh như không, nói với tôi: “Con à! Đừng sợ! Đến giờ, Thiên Chúa tự sẽ an bài”.

Ngày 13 tháng 4 quân lệnh truyền xuống, định tờ mờ sáng ngày 15 bao vây tiêu diệt quân địch cát cứ ở nội thành Vũ Hương. Trên mệnh lệnh có ghi rõ, chỉ thị Lữ đoàn trưởng trực tiếp thương thảo với linh mục Lôi để giải quyết vấn đề thương binh.

Buổi chiều cùng này, chúng tôi theo bộ chỉ huy Lữ Đoàn 34 xuống khỏi núi Thái Hành, rồi kinh qua trấn Tây Doanh, dọc theo đường cái tiến về Vũ Hương. Chúng tôi trú ngụ qua đêm tại trấn Bàn Long. Đến chiều ngày 14 lại đóng trại ở Vũ Gia Trang, cách Vũ Hương hơn ba cây số về phía đông. Bộ đội vũ trang cũng đã có mặt khắp các khu vực đồi núi trong chu vi dưới 18 cây số quanh huyện, hoàn thành việc bố trí vây diệt tàn quân của địch.

Khoảng ba giờ sáng ngày 15, chúng tôi bị tiếng pháo gọi tỉnh. Hôm nay cũng là ngày kỷ niệm Chúa Giêsu chịu thương khó, linh mục Lôi không cử hành thánh lễ, cũng không có bữa sáng, chúng tôi cử hành kinh sáng xong, liền bắt tay chuẩn bị công việc.

Kể ra linh mục Lôi thật sự là “Kỳ nhân”, biện pháp của ngài ấy tới rồi! Sau kinh sáng, ngài ấy gọi tu sỹ Lữ Bân (quan chức phụ trách y tế) và tôi đến vùng phụ cận Bạch Gia Trang, ở đó có một ngôi thánh đường, chủ nhân là một linh mục Hà Lan. Linh mục Lôi hàn huyên với ngài ấy mấy lời, rồi buột miệng nói ra chủ đích đến đó: Xin linh mục cho phép thu nhận thương binh ở sân nhà thờ. Vị linh mục ấy tặc lưỡi, thật lâu cũng nói không ra là “được” hay “Không được”. Miệng lưỡi và tinh thần cứu quốc động lòng người của linh mục Lôi cuối cùng cũng đã chiến thắng những hoài nghi của vị linh mục quản xứ: “Được thôi!” vị linh mục đó khẳng khái đáp ứng thu nhận 50 người.

Linh mục Lôi cúi gập người 90 độ cảm tạ vị linh mục đó, và lập tức lệnh cho tu sĩ Lữ Bân sắp xếp nơi tiếp nhận thương binh ở sân thánh đường. Tôi cùng linh mục Lôi trở về bộ chỉ huy Lữ Đoàn, trước tiên đem những binh sĩ trọng thương hộ tống tới Bạch Gia Trang, giao cho nơi tiếp nhận an bài chỗ ở.

Ở một thái cực khác, khoảng mười giờ sáng, quân địch bắt đầu đột phá vòng vây, quân ta cũng cật lực đánh chặn: tiếng pháo kích, súng trường, súng máy, hòa vào nhau vang lên chát chúa. Súng là thứ không có mắt, vì thế, rất nhiều tráng sĩ ái quốc đã lần lượt ngã xuống.

Thương binh được hộ tống tới Bạch Gia Trang đã quá quân số, không thể nhận thêm. Làm thế nào đây? Linh mục Lôi đã dẫn hai tu sĩ Bảo Lộc và Tại Đức đi tới Địch Gia Trang. Ở đó mặc dù có thành đường, nhưng lại chẳng có linh mục coi sóc, nên nhiều giáo hữu trong thôn nói với linh mục Lôi: “Cha chính là chủ nhân của ngôi thánh đường vậy!”. Thế là nơi đó lại lập tức trở thành nơi tiếp nhận thương binh thứ hai, do tu sĩ Tại Đức và ba vị hộ sĩ coi sóc lo liệu.

Trưa hôm đó, tại Bộ chỉ huy đội cứu thương, trong sân ngoài sân, thương binh nằm la liệt ngang dọc khắp nơi. Tôi lúc đó vừa gấp, vừa hoảng, vừa bận, mồ hôi mồ kê thì nhễ nhại, ấy vậy mà quan y Lưu Tử Hanh vẫn cứ hối thúc tôi nhanh chóng đem thương binh chuyển đi. Đang trong lúc cấp bách âu lo, phó đội trưởng Bảo Lộc chạy như bay đến nói với tôi: “Thương binh chuyển tới Địch Gia Trang, số lượng đã vượt mức rồi!”.

Vẫn là linh mục Lôi có cách giải quyết!” tôi thoải mái nói một tràng.

ĐỒ NHẬT BẢN, VÔ TÍCH SỰ!

Khoảng ba giờ trưa, nội thành Vũ Hương nổi lửa lớn, quân địch đã bỏ thành quyết tâm phá vòng vây. Một tốp quân địch đánh thẳng trực diện tới trận địa của Lữ Đoàn 34. Bộ chỉ huy Lữ Đoàn đặt ở đất Vũ Gia Trang cũng trở thành mục tiêu pháo kích của quân địch. Bởi vì đạn pháo quá dày, lữ trưởng Thốn và Tham mưu trưởng liền đem điện đài lên ngọn đồi nhỏ gần đó để chỉ huy tác chiến.

Có một thương binh trẻ, đang tranh chấp với tôi muốn ngồi trên cáng, đột nhiên “Ùm” một tiếng, một quả đạn pháo bắn vào bộ chỉ huy đội cứu thương chúng tôi, anh ta liền chẳng màng đến việc ngồi cáng cứu thương, nhưng nhấc giò, cà nhắc cà nhắc chạy.

Sau đó, tiếng pháo liên thanh cũng liên tục bắn tới. Nhân viên đội cứu thương mặt mày tái mét trốn trong hang động không dám ra ngoài. Linh mục Lôi nhìn thấy chúng tôi sợ phát run, liền dùng lời hài hước mà cổ vũ chúng tôi: “Đừng sợ, đồ Nhật Bản vô tích sự ấy mà!”.

Đầu bếp của chúng tôi dắt một con lừa, đang chuẩn bị rời khỏi thôn này, thì một trái đạn pháo đánh trúng giữa người và lừa. Kỳ lạ thay! con lừa chết tại chỗ, nhưng người thì lại bình yên vô sự! Đầu bếp lăn mấy vòng trên đất, đứng bật dậy hỏa tốc chạy ngay vào hang, ngồi ngây dại giống như người ngốc, vừa muốn cười lại vừa muốn khóc!

Vũ Gia Trang sắp bị đạn pháo san bình địa. Các cơ quan của Bộ chỉ huy Lữ Đoàn đều đã thoái lui khỏi thôn, di chuyển tới nơi Bộ chỉ huy Quân đoàn đồn trú. Linh mục Lôi vì chưa nghe được mệnh lệnh, nên vẫn kiên trì bám trụ không cho phép đội cứu thương rời đi. Sau đó, ngài ấy lệnh cho tôi tới đầu núi, đi tìm Lữ đoàn trưởng để xin chỉ thị, rồi sau đó mới dẫn chúng tôi lui về Bộ chỉ huy Quân Đoàn.

Vừa tới nơi Bộ chỉ huy đồn trú, cảnh tượng đâpoj vào mắt chúng tôi là từng tốp từng tốp thương binh nằm la liệt trong ngôi miếu lớn. Thương binh vốn dĩ là từ hỏa tuyến chuyển đến, bởi vì nhìn thấy Vũ Gia Trang khói lửa tứ bề, nên không dám tiến vào thôn, liền một mạch hộ tống tới Bộ chỉ huy Quân Đoàn. “Thương binh đông như vậy, phải làm sao đây?” tôi đi tìm Quân đoàn trưởng xin chỉ thị. Quân đoàn trưởng lại kêu tôi đi hỏi linh mục Lôi, linh mục Lôi vẫn là nói như này: “Một thương binh cũng không bỏ lại!”.

MỘT NGƯỜI CŨNG KHÔNG BỎ LẠI

Ngày kỷ niệm Chúa Giêsu chịu nạn, năm Dân Quốc thứ 27, đối với đội cứu thương chúng tôi mà nói, thật sự là “Ngày Chịu Nạn” đúng như tên gọi. Đó là ngày mà chúng tôi giữ chay nghiêm ngặt nhất; bởi vì bận cáng cứu thương binh, nên cũng không rảnh rỗi ngồi xuống ăn uống một bữa cơm bình yên. Khi có người đói đến mức thực sự không thể gắng được nữa, phần đa đều đem “Bún rang” mang theo người, pha với nước sông để ăn chống đói.

Chiều hôm ấy, địch quân đột phá vòng vây thành Vũ Hương mưu đồ thoát chạy, một tốp quân địch đánh thẳng vào trận địa của Quân Đoàn 3. Lữ Đoàn 34 được mệnh danh là “Thiện đả ngạnh trượng” (nghĩa là giỏi chiến đấu trong những trận chiến khó khăn) đang ở đó cũng sẵn sàng nhường đường cho quân địch tháo chạy, và sau đó dồn toàn bộ sức lực chặn đánh và vây diệt địch. Vì thế, hai bên đều tổn thất rất nặng nề.

Bộ chỉ huy đội cứu thương sau khi di chuyển từ hỏa tuyến Vũ Gia Trang tới đồn trú của Bộ chỉ huy Quân Đoàn, Trưởng quan phó của Quân Đoàn lập tức đến gặp linh mục Lôi, nói cho ngài ấy biết tình hình thương binh tại chỗ; Khắp nơi trên đường phố hay trong miếu tự, đâu đâu cũng là thương binh nằm la liệt đợi cứu chữa. Sau cùng anh ta xin linh mục Lôi trợ giúp, nhanh chóng sắp xếp lo liệu.

Tôi ở bên cạnh nghe thấy vậy, nhịp tim càng đập gấp gáp lộn nhịp, hai tay hướng về linh mục Lôi quơ quơ:

— Nhiều thương binh như vậy, đội cứu thương đi Miêu Gia Trang vẫn chưa có trở lại, bây giờ phải làm sao?

— Nhanh đi tìm biện pháp, ít càm ràm lẩm bẩm lại!

— Thực sự hao tổn trí lực rồi!

— Nhớ: một thương binh cũng không được bỏ lại!

— Ờ ùm hoh…

Khi Phó trưởng quan Bộ chỉ huy Quân Đoàn cáo từ, tôi tiễn ông ta đến tận cửa lớn. Ông ta nhìn tôi thực sự lấy làm khó khăn. Cực kỳ đồng cảm với tôi, và nói với tôi, ta nói nhóc nghe: “Đừng sợ, đi theo tôi, chúng ta sẽ suy nghĩ biện pháp!”. Nói đoạn, chúng tôi đã đến phòng của phó quan, anh ta kêu hai vị phó quan tới Ủy ban của thị trấn sở tại thương lượng và trưng dụng dân phu, để họ dùng tấm cửa làm cáng thương giúp đỡ chúng tôi vận chuyển người. kết quả chúng tôi đã thu nạp hơn trăm dân phu và đã giúp chúng tôi vận chuyển đi hơn 60 người. khi ấy, vẫn còn sáu quân nhân trọng thương đang rên rỉ la hét ầm ĩ trong miếu: “Mau chuyển chúng tôi đi, quân địch sắp đến rồi!

Giờ này cũng đã gần nửa đêm, Quân đoàn trưởng phái người kêu tôi tới Bộ chỉ huy Quân Đoàn, dùng âm giọng trầm thấp và dồn dập nói với tôi: “Mau chuẩn bị cho linh mục Lôi một con ngựa, để ngài ấy mau chóng theo sau tôi và Tham mưu trưởng, chúng tôi phải lập tức rời đi. Tình hình hiện tại rất căng, Trung Đoàn 68 thực sự trụ không được nữa rồi, Trung đoàn phó cũng đã bị thương, hiện đang được Trung Đoàn 68 yểm trợ rút lui. Lữ trưởng Thốn tức khắc sẽ đến mau thôi! … Mau! Mau! Mau mời linh mục Lôi đến đây!”.

— “Báo cáo Quân đoàn trưởng, vẫn còn 6 quân nhân trọng thương nằm trong miếu, thực sự tìm không ra người vận chuyển bọn họ, làm thế nào đây?” tôi sốt ruột nhìn Quân đoàn trưởng.

— “Đồ ngu! Mạng sống của bản thân còn khó bảo toàn, vẫn còn quản nhiều vậy sao? Nhanh đi mời linh mục Lôi lại đây!” Quân đoàn trưởng khua khua tay.

Tôi cúi chào Quân đoàn trưởng, ba chân bốn cẳng chạy về đội cứu thương, đem tình trạng cấp bách nói với linh mục Lôi. Ngài ấy lập tức dắt quan y, hộ sĩ và mấy vị tu sĩ loạng choạng chạy đến Bộ chỉ huy Quân đoàn. Quân đoàn trưởng nhìn thấy linh mục Lôi đến, liền lập tức hạ lệnh: “Xuất phát!”.

Tôi đứng chết chân ở đầu đường trông theo linh mục Lôi. Trong đầu tôi nảy sinh rất nhiều câu hỏi: đi theo linh mục Lôi hay không? Không nhẫn tâm bỏ lại 6 thương binh; đi tới trong miếu hộ tống bọn họ cùng đi? Một mình tôi làm sao có thể mang hết bọn họ đi đây? Tôi do dự ít phút, lương tâm thúc đẩy hai chân tôi chạy như bay tới ngôi miếu. Tới nơi thì nhìn thấy, ngoài 6 quân nhân trọng thương đang rên rỉ, chỉ có hai cây đèn dầu nhỏ đang lắc lư ở đó.

— “Quan y à! Cứu mạng chúng tôi!” 6 người thương binh cố gắng chút khí lực hét lớn.

Tôi chẳng có trả lời, chỉ đi qua đi lại hai ba lượt giữa sáu người bọn họ. Con tim tôi đang nhảy loạn, tôi vô thức thổi tắt hai ngọn đèn dầu, nhấc chân chạy nhanh ra ngoài. Nghe sau lưng vừa khóc vừa gọi: “Quan y! Ngài bỏ rơi chúng tôi sao? Cứu chúng tôi với!

Con tim của tôi sắp vỡ rồi! tôi trong cơn hốt hoảng chạy một mạch đến đường lớn, vừa vặn làm sao lại gặp đội cáng thương của Trung Đoàn 68, đang từ hỏa tuyến rút lui trở về, nhưng chẳng có mang theo thương binh. Tôi liền giả truyền lệnh của Quân đoàn trưởng, muốn bọn họ giúp vận chuyển 6 thương binh tới nơi Bộ chỉ huy Quân đoàn đang đóng quân. Bọn họ cũng vô cùng khẳng khái, lập tức theo tôi tới ngôi miếu, đem 6 quân nhân trọng thương đuổi theo Bộ chỉ huy Quân đoàn. Lúc này, hòn đá bự chảng trong con tim tôi dường như đã được tháo đi, nên tâm trí tôi cũng theo đó mà dần dần an tĩnh trở lại.

Quả thật, cứ làm đi sẽ có biện pháp mà!

NGÀN CÂN TREO SỢI TÓC

Lúc này đã là hai giờ sáng ngày 16 cùng tháng. Tôi cùng 6 đội cáng theo đồng đội dịch chuyển đến một nơi cao (núi Thái Hành) ở phía đông. Theo lẽ thường, những người mang vác nặng thường đi lại rất chậm chạp, nên đoàn chúng tôi dù đã đi ba giờ rồi, nhưng rốt cuộc vẫn không đuổi kịp linh mục Lôi.

Khoảng 5h sáng, khi phía đông đã hơi lộ ra những tia nắng đầu tiên, chúng tôi vừa vặn cũng đã tới một cái thôn khá lớn, gọi là thôn Hàn Bích. Vừa tiến vào thôn, tôi liền nhìn thấy tu sĩ Phương An đứng ở bên đường chào đón tôi. Tôi hỏi anh ấy linh mục Lôi ở đâu, anh ấy chỉ một ngôi nhà và nói: “Ở nhà này nghỉ ngơi”. Tôi lại hỏi anh ấy, quân đoàn trưởng ở chỗ nào, anh ấy nói: “Quân đoàn trưởng đã ở đây nghỉ ngơi ít phút, nhưng rồi đã xuất phát theo con đường nhỏ lên núi rồi! cán bộ Bộ chỉ huy Quân đoàn, quan y và hộ sĩ của đội chúng ta cũng đều đã đi lên núi, chỉ có linh mục Lôi và mấy tu sĩ vẫn ở đây thôi!”.

Bộ chỉ huy Quân đoàn không ở đây, tôi liền kêu 6 đội cáng tiếp tục tiến về phía trước, và nói với bọn họ: “Tôi đi xem linh mục Lôi rồi theo sau mà đến với họ!”.

Tôi đang muốn theo tu sĩ Phương An đi thăm linh mục Lôi, thì đột nhiên lính cần vụ của lữ trưởng Thốn hổn hển chạy đến nói: “Lữ đoàn trưởng có thư quan trọng giao cho linh mục Lôi!”, nói đoạn liền đưa cho tôi một tờ giấy ghi chú, bên trên chỉ viết mấy chữ: “Linh mục Lôi! Hạn cho mọi người trong năm phút phải rời khỏi thôn này!”.

Tôi cầm tờ giấy ghi chú, chạy như bay theo tu sĩ Phương An đến nơi linh mục Lôi nghỉ ngơi, đánh thức ngài ấy và các tu sĩ khác. Linh mục Lôi nhìn tờ giấy ghi chú, thái độ điềm nhiên như thường, chỉ nói một câu: “Đi! Chúng ta đi!”

Sau khi linh mục Lôi ra khỏi thôn và đi vội về phía núi cao, lữ trưởng Thốn cũng hoàn tất bố trí đội đặc vụ của ngài ấy ở rìa thôn và đầu đường. Bộ đội vũ trang của trại công binh thuộc Bộ chỉ huy Quân đoàn vốn dĩ đã theo Quân đoàn trưởng lên núi, giờ đây lại nghoảnh đầu quay lại và đi về phía thôn Hàn Bích. Có một vị sĩ quan còn hối thúc linh mục Lôi nhanh chóng rời đi.

Chúng tôi hoang mang hướng thẳng lên núi, mặc dù biết tình hình không tốt, vẫn không có nghĩ rằng bản thân đang ở trong cục diện nguy hiểm “Ngàn cân treo sợi tóc”.

Hạn trong 5 phút” mà trên giấy ghi chú viết chỉ là cảnh báo “Tình trạng cấp bách”, nếu thật sự chỉ có thời hạn 5 phút, chúng tôi đều “Tiêu” hết rồi.

Chạy khoảng 15 phút, phía sau tiếng súng và còn xen kẽ cả tiếng lựu đạn nổi lên tứ bề. Tiếng súng và tiếng lựu đạn ấy đối với chúng tôi mà nói, đơn giản chỉ như là một loại “Lực khấy động” lớn hơn, để chúng tôi quên đi những mệt nhọc, giúp cho mắt nhìn không thấy gai góc và đá loạn, hòng chỉ còn chạy và chạy hết sức bình sinh lên núi. Chạy khoảng 20 phút, chúng tôi từ xa xa trông thấy một ngôi làng nhỏ, trong thôn ngoài thôn đều chật kín một biển người chen chúc; đó chính là nơi đóng quân tạm thời của Bộ chỉ huy Quân Đoàn. Bởi vì ngôi làng này rất nhỏ, nên phần lớn người ngựa đều nghỉ ngơi dưới những tán cây ngoài thôn.

Linh mục Lôi tới nơi, vẫn chưa định chỗ nghỉ, Quân đoàn trưởng đã phái người nói với ngài ấy: “Lữ trưởng Thốn điện thoại đến nói: thương binh như nước chảy từ trận địa đến, mau phái đội cáng đến giúp đỡ!”.

Lúc này, đội cáng thương của đội cứu thương phần lớn vẫn tứ tán khắp nơi chưa có quay lại, chúng tôi lại phải mượn những cánh cửa của dân phu địa phương để cáng cứu thương binh. Sau đó, chúng tôi lại lên lên xuống xuống như con thoi lao vào trận địa, đem thương binh ở thôn Hàn Bích hộ tống lên núi. Tới giữa trưa, chiến sự giảm nhiệt, chúng tôi mới có thể thoải mái thở một chút.

Chiến sự lần này, vốn là do một toán nhỏ lính Nhật quá cảnh, bị đội đặc vụ của Bộ chỉ huy Lữ Đoàn và trại công binh của Bộ chỉ huy Quân đoàn vây đánh, và đánh cho bọn họ tơi bời tan tác. Tàn quân theo hướng Đông Dương Quan chạy thoát thân. Tổn thất quân ta cũng không nhẹ, giữa trưa chúng tôi kiểm tra số thương binh, ghi nhận khoảng trăm người, trong đó số bị trọng thương là 60. Ở nơi đèo cao núi dốc không có dấu hiệu của con người này, gần đó lại chẳng có thánh đường, làm thế nào sắp xếp ổn thỏa cho những thương binh này đây??

— Chỉ có kì nhân Lôi Minh Viễn mới có thể nghĩ ra biện pháp diệu kỳ mà thôi.

MỘT NGÀY BẬN RỘN

Ngày 16 tháng 4 năm 27 Dân Quốc là ngày trước Lễ Phục Sinh, chúng tôi từ sáng sớm tới trưa, bận nửa ngày cuối cùng cũng đem thương binh từ thôn Hàn Bích vận chuyển tới một thôn nhỏ gần núi cao. Nhưng tính lưu động của chiến tranh du kích rất lớn, chúng tôi không thể trú ngụ lâu dài ở đây, nên cần phải đem thương binh sắp xếp bố trí ở một nơi an toàn hơn. Hơn nữa, mọi người đều hy vọng ngày mai sẽ trải qua một ngày Lễ Phục Sinh thoải mái, liền thể thiện tinh thần không biết mệt mỏi, không quản hi sinh bất cứ thứ gì, muốn trong hôm nay đem hơn trăm quân nhân trọng thương tới chỗ an toàn.

Trên núi Thái Hành, người ngợm thưa thớt, vừa chẳng có làng lớn, chứ đừng nói đến thánh đường, làm thế nào đây? Linh mục Lôi sở dĩ vĩ đại, chính là ở chỗ khi người ta bất bực buông xuôi, thậm chỉ càu nhàu hậm hực, thì ngài ấy luôn tìm ra đường sống.

Khoảng hai giờ trưa, linh mục Lôi và tu sĩ Bảo Lộc dắt hai giáo dân trẻ bản địa (Vũ Xương) tới gần khu vực đèo cao núi thẳm, tìm nơi có thể thu xếp cho thương binh dưỡng thương. Khi sắp hoàng hôn, tu sĩ Bảo Lộc và hai vị giáo dân trẻ chạy như bay đến nói với chúng tôi, linh mục Lôi đã tìm được hai hang động khá lớn, động phía đông nhường cho thương binh trú ngụ. Địa thế quanh ngôi làng nhỏ này vừa cao vừa nguy hiểm, khả năng để chuyển thương binh đi sẽ tốn nhiều sức lực, nhưng đó là nơi tuyệt đối an toàn, quân địch sẽ không dễ dàng phát hiện.

Tu sĩ Bảo Lộc một mặt dặn dò tôi mau chóng chuẩn bị cáng thương, một mặt phái tu sĩ Duy Long và hai hộ sĩ đi đến hai hang núi vừa tìm thấy, phụ trách chăm sóc và lo liệu cho thương binh. Khi khởi hành, quan y Lưu dặn dò bọn họ, mỗi ngày phải lấy nước sạch rửa người bị thương một lần, để tránh sưng tấy nhiễm trùng.

Bởi vì núi cao người ít, lại không thể mướn thêm dân phu, còn thành viên đội cứu thương thì phần lớn vẫn chưa quay lại đội, người có thể dùng không tới trăm người, nên mỗi lần nhiều nhất cũng chỉ hộ tống được 20 thương binh mà thôi. Vì thế, đội cứu thương không đến trăm người này phải năm lần bảy lượt lên lên xuống xuống trên con đường nhỏ, từ sáu giờ tối đến nửa đêm mà vẫn chưa chuyển xong thương binh.

Trong sự mệt mỏi và bận rộn cực độ này, nhiều lúc cũng phát sinh những điều vui vẻ, khiến mọi người thoải mái phấn phởi một chút. Tôi vì chạy tới chạy lui điều phối các Phân đội trưởng, điều động cáng thương, có lúc cũng trưng dụng vài dân phu lại giúp đỡ. Chạy đông chạy tây cả ngày, không chỉ ngó lơ ăn uống, mà còn chẳng chú ý tới thời gian. Khi tôi đói cồn cào, lưỡi khô môi téc, muốn ăn muốn uống, mới cầm đồng hồ ra xem: “Aizaaaa! Đã là 0h quá 5 phút rồi!”. Đương thời, theo như quy định giữ chay Thánh Thể, là từ nửa đêm cho tới khi rước Thánh Thể, giọt nước cũng không được uống, nên lại càng khổng thể ăn. Miệng của tôi thực sự rất khó chịu. Cái khó ló cái khôn, tôi nói với người bên cạnh: đồng hồ của tôi đại khái là chạy nhanh ít phút, nói đoạn tôi đem kim đồng hồ quay ngược lại mười phút, rồi vội vàng nuốt chửng hai chén nước lớn, để có thể an tâm rước Thánh thể trong Lễ Phục Sinh. Những tu sĩ và giáo dân bên cạnh thấy hành động “Bịt tai trộm chuông[1]” này của tôi, ai nấy cũng đều cùng nhau cười vang.

LỄ PHỤC SINH THÊ LƯƠNG

Đội cứu thương chúng tôi sau khi đem gần cả trăm quân nhân trọng thương bố trí ổn thỏa, thì đã là khoảng 1h sáng ngày 17. Chúng tôi ngoài việc cảm thấy tâm tình thoải mái sau khi đã hoàn tất công việc, thì cũng tràn đầy niềm vui chờ đón Chúa Cứu Thế phục sinh. Khi ấy, tất cả bộ đội chiến đấu của Lữ Đoàn 34, bao gồm hai Trung Đoàn 68 và 69, cùng đều đang mang tấm thân mệt mỏi đi đến Bộ chỉ huy Quân đoàn. Bọn họ vừa đến, dường như đã quên đi tất cả, chỉ là muốn ngủ mà thôi; họ chẳng màng sự ẩm thấp hay sự gồ ghề của dốc núi, cũng chẳng cần giải giáp, cứ thế một thân lủng lẳng những đồ vũ trang, bạ chỗ nào nằm chỗ đó đi vào trong giấc mộng.

Quân đoàn trưởng để mọi người nghỉ ngơi chưa đến một giờ, liền hạ lệnh xuất phát. Mọi người lại náo động trở lại, chỉnh đốn hành trang, và chuẩn bị lên đường.

Đi đâu bây giờ? Tám chín phần việc quân đều là bí mật, chỉ có tướng lĩnh cấp cao mới được biết, ngay cả đối với quân tiên phong và người dẫn đường hành quân, đích điểm lần hành quân này ở đâu bọn họ cũng không được nói cho biết. Vì thế, Chúng tôi cũng chỉ biết theo sau hàng ngũ, đi về hướng nhiệm vụ của chúng tôi.

Linh mục Lôi và đội ngũ cứu thương một mặt theo quân lên đường, một mặt thì thầm với nhau: đại khái bình minh thì sẽ cắm trại nghỉ ngơi, đúng giờ chúng tôi sẽ lập tức cử hành “Lễ vượt qua”. Mọi người cổ vũ lẫn nhau nghiêm giữ “Chay Thánh thể”, tránh việc bỏ lỡ Tiệc Thánh Thể của Lễ Phục Sinh.

Leo lên hết núi này qua núi khác, lội qua hết con suối này đến con suối khác, kim giờ đã chỉ 8h sáng, một chút dấu hiệu dừng cuộc hành quân cũng không có. Mọi người bắt đầu cảm thấy lo lắng bất an. Người có cá tính bi quan hơn đã nói: “Trông Thánh Lễ để lãnh nhận Thánh Thể ư? Đừng mộng mơ giữa ban ngày nữa. Ai khát! Hãy uống nước đi! Ai đói! Cũng lấy “Bột mì rang” mang theo bên mình mà ăn đi!” Linh mục Lôi thì cổ vũ mọi người, đợi tới 11h rồi hãy ăn uống.

Hành quân lại hành quân, nhìn quanh ngoài cây khô đá núi, thì chẳng nhìn thấy bất kỳ thôn dân nào, chứ đừng nói đến nhìn thấy thôn trang. Đại khái khoảng 10h, chính là lúc quân đội thường dùng bữa đầu tiên trong ngày, bỗng nhiên nhìn thấy đội quân phía trước như ong vỡ tổ, lần lượt tứ tán, tìm khoảng đất bằng phẳng nằm ngồi nghỉ ngơi; đồng thời với đó cũng vang lên trong không khí truyền tới: Nghỉ ngơi! Nghỉ ngơi!

Linh mục Lôi nhìn thấy phần lớn đều dừng laị nghỉ ngơi, thái độ mặc dù rất bình tĩnh, nhưng cũng không dấu nổi tâm tình “Thất vọng”, mà tuyên bố với chúng tôi: “Thánh Lễ Phục Sinh không thể cử hành rồi! mọi người có thể tùy ý ăn uống!”. Nói đoạn cũng đi tìm chỗ đất bằng ngồi xuống nghỉ ngơi. Kể ngắn kể dài, cả ngày Lễ Phục Sinh hôm đó, chúng tôi đã trải qua trọn vẹn trong sự mệt mỏi của cuộc hành quân. Hoàng hôn ngày hôm đó, chúng tôi mới tới thôn Bình Đầu, là thôn trang mà Quân đoàn trưởng chỉ định cắm trại.

NGỦ LÀ THƯỢNG SÁCH

Chiến tranh du kích ở một dải Đông Nam Tấn lúc ấy đã tiến hành được hai tuần rồi, thật sự có thể dùng 2 từ “Hỗn chiến” để hình dung tình hình chiến sự lúc đó. Mặc dù quân địch thương vong nặng nề, nhưng ai cũng không thể dự liệu bọn chúng sẽ chọn lựa lập tức rút lui khỏi chiến trường; chính trong ngày lễ phục sinh, ngày Chúa Giêsu chiến thắng sự chết, quân ta cũng đã hát vang chiến thắng khải hoàn. Hóa ra lúc này quân ta đã đánh một trận thắng lợi cực kỳ đẹp ở “Đài Nhi Trang” Sơn Tây, khiến cho trụ sở chính của quân địch vô cùng kinh sợ, kinh sợ cho đội quân của mình ở Đông Nam Tấn sẽ bị vây diệt, liền lệnh cho quân mở một con đường máu từ Đông Dương Quan chạy về tỉnh Hà Bắc.

Buổi chiều Ngày Phục Sinh, chúng tôi theo Bộ chỉ huy Quân đoàn tiến sâu vào núi Thái Hành, tới một dải đất bằng, ở đó có một thôn làng tương đối lớn, gọi là thôn Bình Đầu. Bên cạnh thôn còn có một con sông chảy qua, biến thôn trang này thành thế kề sông dựa núi, rất thích hợp là một nơi nghỉ ngơi. Quân trưởng liền cho phép mọi người dựng trại ở đây, tạm thời nghỉ ngơi vài ngày.

Mọi người vừa nghe nói “Nghỉ ngơi”, thật sự so với nghe nói “Phát lương” vẫn là vui vẻ hơn gấp nhiều lần. Linh mục Lôi mặc dù được biết đến là “Người mạnh mẽ”, và cũng thường đôn thúc chúng đệ tử của ngài ấy phải trở nên “Kẻ mạnh”, nhưng lúc này cũng không thể không cúi đầu trước mệt mỏi. Ngài ấy nở nụ cười rạng rỡ tuyên bố với chúng tu sĩ: “Sau cơm tối có thể tự do đọc kinh, sau đó tùy ý nghỉ ngơi. 8h sáng ngày mai cử hành Thánh Lễ, mọi người có thể ngủ tới 7h”.

Chúng tôi đã không ngủ không nghỉ làm việc ba ngày liền. Khi hành quân, mặc dù cũng vừa đi vừa ngủ gật, nhưng phần vì sợ mất liên lạc với đội ngũ, nên cũng không thể không miễn cưỡng ngọ ngoạy, khổ chiến với quỷ ngủ. Bây giờ nghe đến 2 chữ “Nghỉ ngơi”, ý chí chiến đấu lập tức bị đánh bại hoàn toàn. Tôi mặc dù cũng cảm thấy bụng đói cồn cào, nhưng cũng chẳng màng tới bữa tối, đọc qua loa sơ sài kinh chiều, rồi lẩm bẩm nói với bản thân: “Nghỉ ngơi chí thượng, ngủ là số một!”. Tôi sau đó đi tới một góc của căn phòng, tìm kiếm một vị trí, trải tấm chăn cáng quân, liền đi vào trong mộng mị.

Ngày thứ 3, sau Thánh lễ, vẫn chẳng có ăn uống, tôi lại tiếp tục đi ngủ, tựa như đã hoàn thành một hành vi vĩ đại, đó là “Ngủ nghỉ liên tiếp 24h” vậy.

TIẾNG SẤM CÀNG VANG CÀNG XA

Chúng tôi nghỉ mấy ngày ở thôn Bình Đầu, núi Thái Hành. Bởi vì quân địch ở Đông Nam Tấn đã hoàn toàn bị quét sạch, nên đường về đại hậu phương, ngang qua đường lớn của Hà Nam cũng hoàn toàn thông thoáng, Quân đoàn trưởng hạ lệnh cho toàn quân xuống núi chuyển dịch tới gần thôn Lê Thành đóng quân.

Thời kỳ đồn trú tại Lê Thành, quân nhân bình thường tương đối nhàn nhã, đội cứu binh của chúng tôi lại bận rộn không thôi. Vốn dĩ mấy ngày trong lúc đánh du kích, chúng tôi đem những quân nhân trọng thương chia ra che dấu trong vô số thánh đường hoặc các hang động trong núi sâu. Bây giờ đường xá đã hồi phục, nên cần phải hộ tống bọn họ về đại hậu phương chữa trị. Thế là chúng tôi lại chia nhau tới các nhà thờ ở Địch Gia Trang, ở Bạch Gia Trang Vũ Hương, bàn thảo công việc tập hợp thương binh.

Nhờ sự giữ gìn đặc biệt của Thiên Chúa, tất cả thương binh được che dấu ở khắp nơi và các tu sĩ canh giữ đều bình an vô sự. Giáo dân ở Địch Gia Trang đặc biệt cảm thấy phấn khích. Bọn họ kể lại tình hình lúc quân địch ghé qua mấy ngày trước, trên mặt họ vẫn còn biểu tỏ sự sợ hãi. Họ nói: “Thật nguy hiểm! khi Quỷ Nhật Bản tháo chạy khỏi thành Vũ Hương, cách thôn này khoảng hơn mười cây số, may nắm là chúng không có tiến vào thôn. Nếu… thì tính mạng của những thương binh này thật khó mà có thể tưởng tượng. Đây lại là linh mục Lôi tỏ lộ phép lạ mà!” — Giáo dân Hoa Bắc thường đem những việc linh mục Lôi làm khuếch đại lên thành “Phép lạ”.

Chúng tôi đem thương binh các nơi tập trung lại, ngoài những thương binh hồi phục và trở lại quân, vẫn còn có hơn 450 quân nhân trọng thương. Nhờ sự hiệp trợ của dân chúng địa phương, rất nhanh thì đã đem những quân nhân này tới bệnh viện hậu phương ở phái nam sông Hoàng Hà. Sau khi Quân đoàn trưởng nghe thấy tin tức tốt lành này, trong lòng cũng phần nào dần trở nên nhẹ nhõm.

Sư trưởng Sư Đoàn 12 lúc ấy, tướng quân Đường Hoài Nguyên cũng từ đại hậu phương trở về tiền tuyến. Đội cứu hộ vốn thuộc Bộ chỉ huy Sư Đoàn, vì thế chúng tôi liền từ nơi đồn trú của Bộ chỉ huy Quân đoàn chuyển tới Bộ chỉ huy Sư đoàn.

Lúc gần đi, Quân đoàn trưởng Tăng mời linh mục Lôi tới phòng ông ta. Vừa gặp, ông ta nắm chặt tay linh mục Lôi, trong mắt chứa đầy giọt lệ anh hùng, nói với linh mục Lôi:

Trong chiến tích của trận hỗn chiến tại Vũ Hương lần này, công lao của ngài thực chiếm phân nửa. Khi chúng tôi bất lực xử lý thương binh, nhưng nhờ sự trợ giúp đắc lực của ngài, tất cả thương binh đều được trú ẩn an toàn trong các thánh đường, một người cũng không để rớt lại. Đây thật sự chiến công lớn phi thường! Đã cứu mạng hơn ngàn thương binh. Công trạng quả nhiên không nhỏ. Điều này đối với sĩ khí của toàn quân thì càng là sự khích lệ rất lớn. Quân nhân không sợ đánh trận, cũng không sợ chết trận, chỉ sợ bị thương mà không có ai cứu. Tướng sĩ toàn quân chúng ta đều có cảm tưởng như thế: Có ngài ở đây, sĩ khí hùng tráng như cầu vồng. Ngài đúng là ân nhân, là cột trụ tinh thần của toàn quân chúng ta!

Linh mục Lôi cũng là người giỏi hùng biện, nhưng khi nghe Quân đoàn trưởng nói những lời này, lại chẳng biết lấy lời nào mà đáp trả, chỉ nói một câu: “Tận lực hết sức mọn mà thôi!”.

Quân trưởng Tăng không chỉ trực tiếp cảm ơn linh mục Lôi cho xong mà thôi, ngài ấy còn đem công trạng đặc biệt này của linh mục Lôi, lập tức trình báo lên cho Ủy viên trưởng họ Tưởng. Không lâu sau đó, Ủy viên trưởng họ Tưởng tặng cho linh mục Lôi một tấm “Huân chương hạng hai Hải Lục Không Giáp” và bằng khen, để ghi nhận công lao và khích lệ cổ vũ. Đại danh của linh mục Lôi từ núi Thái Hành đã truyền tới tận Chính phủ Trung ương, và lan truyền khắp nơi trong đất nước.

CHÂN PHÚC VIỆN THEO QUÂN

Sau khi tàn quân của địch bị chúng tôi quét sạch khỏi Đông Nam Tấn, đội cứu thương chúng tôi cũng đem những thương binh cất dấu ở khắp nơi chuyển đến bệnh viện ở đại hậu phương, khiến mọi người đều thở phào nhẹ nhõm. Lúc này, toàn thể quan binh Sư Đoàn 3 phụng lệnh đồn trú ở các thôn làng phụ cận Lê Thành. Những chiến sĩ đã khổ chiến hai tuần liền đều mệt mỏi không thôi, thực sự cần phải nghỉ ngơi mấy ngày, để những căng thẳng và mệt mỏi tan đi, để hồi phục lại tinh thần cũng như sức lực đã bị hao mòn.

Vừa lúc quân Nhật bàng hoàng tháo lui, đồ cấp dưỡng cũng lưu lại ở Lê Thành không ít, trong đó còn có nhưng lon bột lòng đỏ trứng, đội cứu thương chúng tôi cũng được phân một ít. Trong số giáo hữu cũng có hảo thủ nấu nướng kỹ thuật không tệ. Dưới sự chỉ huy của anh ta, chúng tôi đã dùng bột lòng đỏ trứng làm thành rất nhiều bánh bông lang. Ở chiến địa có thể ăn bánh bông lang, mọi người đều cảm thấy rất là “Khoan khoái”.

Linh mục Lôi đối với đời sống tu sĩ chúng tôi, một mặt không cho phép buông thả. Ngài ấy quy định thời gian biểu hằng ngày cho chúng tôi, giống y hệt như là đời sống ở tu viện: không chỉ sinh hoạt thường ngày có định giờ cầu nguyện chung, hát kinh Mân Côi,… Linh mục Lôi còn mỗi ngày hai lần giảng Thánh Kinh và Luật Dòng cho các tu sĩ trẻ. Ngài ấy cảm thấy đời sống của chúng tôi trên chiến trường hay ở trong tu viện cũng không khác nhau. Vì thế, ngài ấy gọi đoàn thể tu sĩ đội cứu thương chúng tôi là “Chân Phúc Viện theo quân”.

Trong một dải Lê Thành và Lộ Thành, tín đồ Công Giáo đương tối nhiều, đặc biệt là các thôn trấn của huyện Lộ Thành. Thánh đường san sát nhau, có thể nói là nơi đây chính là con tim của giáo phận Lộ Thành. Nơi đây cũng là nơi sản sinh rất nhiều linh mục và tu sĩ nam nữ. Ba chữ “Lôi Minh Viễn” ở trong mắt đám đông giáo hữu ở đây, sớm đã là một tên tuổi “Nhà nhà đều biết”. Một tháng trước khi linh mục Lôi tới Tương Viên, Vũ Huyện, họ đã có nghe biết qua, nhưng chỉ vì chiến cuộc hỗn loạn, bản thân họ lại đang ở trong khu vực địch chiếm đóng; hơn nữa, hành tung của chúng tôi cũng bất định, nên không thể liên lạc được. Hiện nay toàn bộ Đông Nam Tấn đã được thu hồi, giáo hữu Lộ Thành nghe nói linh mục Lôi đã quá bộ tới Lê Thành, lập tức phái người đến mời ngài ấy viếng thăm các ngôi thánh đường của họ, không chỉ là để bọn họ tận mắt nhìn thấy phong thái của ngài ấy, mà cũng là để tận tai nghe những đạo lí động lòng người từ chính môi miệng ngài ấy phát ra.

Linh mục Lôi không biết “Mệt mỏi bởi bất cứ thứ gì”, vì không muốn giáo dân Lộ Thành phải thất vọng, ngài ấy lập tức mang theo tu sĩ Tại Đức (bởi vì anh ta sinh ra ở Lộ Thành) cùng đi theo bọn họ.

Sau năm ngày, linh mục Lôi lê tấm thân mỏi mệt trở lại đội cứu thương. Theo như tu sĩ Tại Đức kể, những nơi linh mục Lôi đến, giáo dân đều xếp hàng hai bên chào đón, các linh mục quản xứ nhìn thấy linh mục Lôi đến, càng vui mừng khôn xiết hơn nữa. Nhưng thứ linh mục Lôi có thể cho giáo hữu, chỉ có thể là “Lời Chúa” mà thôi.

MỘT TRÒ ĐÙA NHO NHỎ

Quân đoàn 3 nghỉ ngơi mấy ngày ở Lê Thành, liền phụng lệnh chỉ huy, xuôi về phía nam tới Tân Giáng, vây diệt quân địch cát cát cứ trong thành ấy. Chúng tôi theo Bộ chỉ huy Sư Đoàn 12 kinh qua Lộ Thành, Trưởng Tử, Thấm Thủy, Giáng Huyện; vượt qua tuyến đường sắt Đồng Bồ, di chuyển tới nơi cao cách thành Tân Giáng 10 km về phía nam đóng quân chờ lệnh.

Lần hành quân đường dài lần này, hoàn hảo vào đúng đầu xuân, thời tiết không lạnh cũng chẳng nóng, không gió cũng không mưa, hơn nữa tâm tình cũng không quá căng thẳng, tựa như đang thực hiện một chuyến du ngoạn thoải mái vậy, nên mọi người đều cảm thấy rất vui vẻ. Cả một đoạn đường không nói chuyện, đi hơn mười ngày là đã tới điểm đích.

Sau khi tới điểm cao phía nam thành Tân Giáng, quân ta liền bắt đầu triển khai bố trí phản công. Có lẽ là chờ đợi nhưng quân đoàn khác đến hiệp trợ, nên hơn mười ngày vẫn chẳng nhìn thấy có hành động quân sự gì. Trong thời gian nhàn rỗi ở đây, linh mục Lôi dẫn dắt tu sĩ chúng tôi và một bộ phận quân nhân đội cứu thương, tình nguyện hiệp trợ nông dân bản địa thu hoạch vụ mùa. Điều đó khiến chúng nông dân cảm động chảy nước mắt, nhưng linh mục Lôi cho rằng đây là việc đương nhiên nên làm mà thôi.

Vào một buổi hoàng hôn ngày nọ, chúng tôi đang ở trong phòng dùng cơm, bên ngoài trời đổ mưa như chút. Đột nhiên người truyền lệnh của văn phòng sĩ quan đưa đến mệnh lệnh khẩn cấp: Tiền tuyến đêm nay phản công, muốn đội cứu thương lập tức đến tiền tuyến, chuẩn bị cấp cứu thương binh; nhưng bệnh nhân và các vật tư y tế có thể đợi tới ngày mai chuyển đi. Linh mục Lôi xem qua mệnh lệnh, đứng phắt dậy, chỉnh trang chuẩn bị xuất phát.

Tu sĩ phó đội trưởng Bảo Lộc, quan y Lưu và tôi ba người ra riêng thảo luận một chút, chúng tôi cảm thấy không thể để linh mục Lôi hành quân dưới đêm mưa. Một ông lão lục tuần, đường núi trơn trượt té xuống khe, cả đội cứu thương coi như xong. Tôi được sự đồng ý của phó đội trưởng Bảo Lộc, chạy đi tìm phó trưởng quan xin chỉ thị của ông ấy: “Linh mục Lôi cũng có thể xuất phát vào ngày mai phải không?” —- “Đương nhiên” Phó trưởng quan biểu thị sự tán đồng, cho phép.

Tôi rất biết cá tính “Không chịu già” của linh mục Lôi, vì thế, muốn đạt được mục đích, cần phải xài đến một vài mánh khóe nhỏ: tôi xin trưởng quan viết cho một tờ giấy ghi chú, nói Sư trưởng có lời, không cho phép linh mục Lôi đêm nay xuất phát. Thế là ngài ấy và quan y Lưu cùng lưu lại ở Bộ chỉ huy Sư đoàn, chúng tôi thì bất chấp mưa gió xuất phát.

Quả nhiên không ngoài dự liệu của chúng tôi, đường núi sình lầy, luôn luôn khiến chúng tôi tiến một lùi ba. Có anh đầu bếp gánh theo nồi hành quân lên núi, không may trượt chân, cả người và nồi đều theo nhau lăn xuống khe núi! Hành trình chưa tới 10 km, vậy mà chúng tôi phải mất hơn 5h đồng hồ mới có thể đến được địa điểm chỉ định.

Ngày thứ hai, linh mục Lôi theo đội y tế cũng tới hỏa tuyến, nhìn thấy tôi, câu đầu tiên liền nói: “Anh lừa cha, sau này không tin anh nữa”. Tôi cúi chào ngài ấy, cười nói: “Trò đùa nhỏ nhỏ tối qua, con không cảm thấy ân hận. Nếu không thì, có lẽ chúng con đã phải đem cha chuyển đến bệnh viện rồi!

Linh mục Lôi cũng đã cười rồi.

THU HOẠCH CỦA LỄ NGŨ TUẦN

Từ cuối tháng 5 tới đầu tháng 7 năm 27 Dân Quốc, Quân Đoàn 3 phụng mệnh tấn công quân địch ở thành Tân Giáng. Trong hơn 40 ngày này, có khi chúng ta tấn công, có khi quân địch phản kích. Năm sáu trận chiến lớn nhỏ, số thương binh đã vận chuyển theo thống kê mới nhất là hơn hai ngàn người. Tại sao trong hơn một tháng lại có nhiều thương binh như thế vậy? Là vì ở trong năm sáu chiến dịch này, số lần chúng ta tấn công nhiều hơn; công thành so với phòng thủ, khiến cơ hội bại lộ trận địa nhiều hơn, nên  thương vong tự nhiên cũng sẽ nghiêm trọng hơn. Nhưng để bảo vệ sự toàn vẹn của quốc gia, thì chẳng tính toán sự hy sinh phải có.

Trong những chiến dịch này, đội cứu thương chúng tôi cũng đổ ra không ít sức lực và mồ hôi, nhưng từ góc độ khác mà xem, thì thu hoạch cũng rất là phong phú.

Ngày 6 tháng 6 là Lễ Thánh Thần hiện xuống, là một trong bốn đại lễ của Giáo Hội Trung Quốc. Vừa vặn gần đây không có chiến sự, linh mục Lôi muốn ở chiến địa mừng lễ long trọng một chút, liền triệu tập một số tu sĩ phụ trách bàn bạc chương trình mừng lễ. Chúng tôi ngoài chuẩn bị hát đại lễ, còn quyết định thực hiện không ít tiết mục giải trí, như: hài kịch, hát đối, kể chuyện cười, kể chuyện, kịch thanh xướng bình,… Chúng tôi cũng dựng một sân khấu giữa trời, dùng giấy màu thô sơ trong làng làm thành những đồ trang trí. Thế là tô điểm trang trí, giăng đèn kết hoa cũng tương đối sinh động duyên dáng và cả tưng bừng náo nhiệt nữa.

Khoảng 3h sáng ngày Lễ Ngũ Tuần, tôi bị Vệ binh gọi dậy từ trong mộng, anh ta lớn tiếng nói: “Mệnh lệnh khẩn cấp” nói đoạn, liền lấy ra tờ ghi chú chưa niêm phong giao cho tôi, đại ý bên trên viết là: chiến sự rất kịch liệt, xin lập tức phái đội cứu thương ngày đêm đi qua tiền tuyến cứu trợ thương binh. Tôi vừa đi gọi linh mục Lôi dậy, vừa theo binh sĩ cần vụ đem mệnh lệnh cấp bách thông báo cho các đội trưởng, muốn bọn họ lập tức chấp hành mệnh lệnh.

Linh mục Lôi sau khi thức dậy, thì cùng với các tu sĩ cử hành một Thánh Lễ, tất cả những tiết mục chúc mừng như dự định hoàn toàn bị hủy bỏ. Và cứ như thế đã mừng xong Lễ Ngũ Tuần. Sự hiu quạnh của nó quả thực chỉ xếp sau Lễ Phục Sinh diễn ra vào 50 ngày trước đó mà thôi. Ngày hôm đó, thứ tiếp theo cuốn lấy chúng tôi chính là một ngày “Bận rộn không thôi”.

Nói thì chậm, nhưng mọi sự diễn ra rất nhanh: trời vẫn còn chưa sáng, thương binh đã như nước chảy vận chuyển lại. Vì thương binh quá nhiều, đội cáng thương của Bộ chỉ huy Trung đoàn không đủ để đáp ứng công việc, Sư Trưởng mới lệnh cho đội cứu thương chúng tôi (trực thuộc Bộ chỉ huy Sư đoàn) tới hỏa tuyến trợ giúp. Thế là công việc đem thương binh chuyển tới bệnh viện hậu phương, đành lại phải nhờ đến dân chúng bản địa hiệp trợ. Vì thế, tôi và phó quan của Bộ chỉ huy Sư đoàn, lại chạy đông chạy tây, đôn thúc mời gọi dân phu đến giúp đỡ.

Sự kịch liệt của chiến dịch lần này không mực đen nào có thể hình dung. Con số thương binh khổng lồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần – hơn hai trăm người, liền có thể âm thầm mô tả sự khốc liệt của nó. Ở đây nhắc lại một việc nhìn có vẻ nhỏ nhưng thực sự lại lớn, càng có thể khiến chúng ta nhìn thấy một phần khuôn mặt khủng bố của thần chiến tranh.

Có mấy vị tu sĩ mạo hiểm sự càn quét của bom đạn và súng trường, trèo đến các chiến hào, nằm rạp xuống kéo các thương binh, và vận chuyển họ đến những nơi an toàn. Tu sĩ Phi Lộc, một người có vóc dáng đặc biệt cao lớn, anh ấy vì để giảm thiểu khả năng trở thành mục tiêu và không muốn quân địch phát hiện, đã nảy ra ý tưởng dùng dây thừng dài, bện vào hai cánh vai của thương binh, để thương binh nằm ngửa, anh ta cũng phục sát đất, kéo thương binh tiến về phía trước, tới khi nào ra khỏi vùng hỏa tuyến, rồi cõng thương binh một mạch chạy đi. Cứ như thế, nách phải của anh ta kẹp cây súng tiến về phía trước. Không biết trong lúc vận chuyển thương binh, thứ gì đó đã xuyên qua quần áo và đã lấy đi một ít da thịt của anh ta. Xong việc anh ta nói với tôi, anh ta bị thương lúc nào cũng không biết, phải sau khi về tới đội mới phát hiện ra. Thế là, con tim của anh ta đập mạnh, anh ta nói mà vẫn cảm thấy “Sợ hãi”: “Haizaaaa! Thật là nguy hiểm mà!

Ngày hôm đó, đội cứu thương bất luận ở trên hỏa tuyến, ở nơi đón nhận thương binh của sở chỉ huy, hay là ở trên đường vận chuyển thương binh, thì những mẩu chuyện tráng lệ xúc động lòng người thật sự không ít; nhưng những câu chuyện khiến người không vui cũng là điều khó có thể tránh khỏi. Linh mục Lôi lúc thì ở hỏa tuyến, lúc thì ở Bộ chỉ huy đội cổ vũ anh em quân nhân, an ủi thương binh; có khi lại thấy ngài đang giải quyết mâu thuẫn giữa ai đó. Thật là vất vả biết bao!

Ngày hôm đó vẫn có những kỷ lục được phá: trong một ngày đã vận chuyển hơn 200 thương binh!

Lễ Ngũ Tuần trong Cựu Ước là “Lễ Thu Hoạch” của người Do Thái. Trong ngày đó, Dân Thiên Chúa cần phải đem “Của đầu mùa” tốt đẹp nhất của ruộng vườn đến đền thờ, để làm lễ phẩm dâng lên Thiên Chúa (Xh 23,16-19). Ngày Lễ Ngũ Tuần đầu tiên của Tân Ước, các tông đồ tràn đầy Thánh Thần, đổ ra khắp nơi làm chứng cho Chúa. Trong ngày hôm đó, đã có hơn ba ngàn người tin vào Đức Giêsu, và lãnh nhận Phép Rửa, làm thành “Hoa quả đầu mùa” mà Giáo hội dâng tiến lên Thiên Chúa (Cv 2,41).

Lễ Ngũ Tuần năm 27 Dân Quốc, một đơn vị cứu thương mà linh mục Lôi dẫn dắt, mặc dù chẳng có ăn mừng long trọng như kế hoạch dự định; cũng chẳng có đại tiệc mỹ tửu — Trái lại, là cả ngày bận rộn, luôn tay luôn chân, mồ hôi nhễ nhại không thôi, ngay cả ăn cơm cũng chẳng màng tới; Nhưng tới khi chiều về, sau khi chiến sự tạm thời lắng xuống, linh mục Lôi tập hợp anh em đội cứu thương lại, cổ vũ động viên mọi người: “Thu hoạch của chúng ta hôm nay mặc dù không thể so với các tông đồ thời kỳ đầu, nhưng cũng rất khả quan. Chúng giáo hữu không muốn để thành tích ấy ra không, muốn làm nó thành “Của lễ tươi mới” dâng lên Thiên Chúa”.

Mọi người trong hân hoan và vỗ tay kết thúc một ngày bận rộn nhất.

NGHE LỆNH NHƯ MÙ

Quân ta vây công quân địch cát cử ở thành Tân Giáng Sơn Tây, thời gian đã kéo dài hơn một tháng rồi, và trải qua năm sáu trận đánh lớn nhỏ. Mặc dù đã phải trả cái giá không nhỏ, thương vong hàng ngàn, nhưng lại chẳng đuổi cùng giết tận quân địch, thu lại thành này. Vì thế mọi người đều cảm thấy vô cùng hối tiếc. Không may là địch quân đã tăng viện quân từ nam xuống bắc, mưu đồ hòng nối lại tuyến đường sắt Đồng Bồ; nên đầu tháng 7 quân địch đã chiếm lĩnh huyện Vân Hỉ. Như vậy, quân ta ba mặt giáp địch, ở vào thế bị bao vây ngược, đó là đại kỵ của việc dùng binh. Bộ tổng chỉ huy vì để bảo toàn lực lượng trường kỳ kháng chiến, không muốn đẩy chúng tôi vào những hi sinh vô ích, thế là ngày 6 tháng 7 hạ lệnh Quân Đoàn 3 đột phá vòng vây của quân địch tại huyện Văn Hỉ, tiến quân tới núi Trung Điều.

Với chiến lược và tình hình quân sự như trên, để việc quân được bí mật, Quân đoàn trưởng không công khai nói cho chúng tôi biết. Văn bản mệnh lệnh mà Sư trưởng gửi cho các đơn vị trực thuộc hết sức đơn giản: “Hoàng hôn ngày 6 tháng 7 tập kết ở thôn Mỗ cách nơi Bộ chỉ huy Sư đoàn đóng quân khoảng 10 km đợi lệnh”. Nhưng Phó trưởng quan lại rỉ tai bí mật nói với tôi: “Đêm nay chí ít phải đi 40 km, mới có thể đột phá vòng vây!”. Tôi đem bí mật này nói cho linh mục Lôi, ngài ấy hết sức khó chịu, làm mặt lạnh nghiêm nghị nói với tôi: “Chính là anh nhát gan! Lo lắng quá nhiều, nên anh đi xem mệnh lệnh”. Trong tim tôi mặc dù không phục, nhưng ngoài mặt lại chẳng có phản kháng.

Vào lúc hoàng hôn, đội cứu thương chúng tôi theo các đơn vị của Bộ chỉ huy Sư đoàn bắt đầu di chuyển. Linh mục Lôi thường là đầu tàu gương mẫu, dẫn dắt tu sĩ và các anh em đội cứu thương bước vào hành trình. Tôi vì coi sóc và lo liệu cho một bộ phận thương binh đợi vận chuyển, nên rớt lại phía sau một đoạn đường. Khi tôi tới thôn Mỗ, tu sĩ Tại Đức đón chào tôi ở cửa thôn, và cho biết linh mục Lôi và một số tu sĩ đã tìm nhà dân nghỉ ngơi rồi. Tôi nghe xong liền rất lấy làm kinh ngạc, rồi theo tu sĩ Tại Đức ba chân bốn cẳng chạy tới phòng của linh mục Lôi, gọi ngài ấy tỉnh dậy, và nói cho ngài ấy biết Sư Trưởng sớm đã rời khỏi thôn này rất xa rồi. Ngài ấy bán tín bán nghi, tới bên đường nhìn ngó, quả nhiên nhìn thấy đội ngũ đều loạng choạng tiến về Triều thôn ở phía nam. Ngài ấy không nói nên lời, và cũng theo đại đội lên đường.

Vốn dĩ các đơn vị của Bộ chỉ huy Sư đoàn thực sự đã “Tập kết” ít phút ở quảng trường phía ngoài thôn. Nhưng sau khi Sư Trưởng đợi các tướng lĩnh cao cấp cưỡi ngựa đến, Sư Trường vẫy roi cưỡi ngựa, sau đó lại khởi hành tiếp tục gấp rút lên đường. Nhưng linh mục Lôi lại lưu lại chờ đợi và tìm nhà dân để ngủ!

Chúng tôi đi cả đêm, may mắn là trời vẫn chưa sáng, thì chúng tôi đã đi ra khỏi vùng nguy hiểm. Theo như người dẫn đường nói, khi chúng ta đột phá vòng vây, chúng tôi cách lính gác của quân địch có hơn 2km. Giả như linh mục và một số tu sĩ mất đi liên lạc với đại đội, thì hậu quả thật sự không dám nghĩ tới.

Sau ngày hôm đó, đại đội vẫn chưa dừng bước tiến quân, chúng tôi đã đi hơn 50 km, vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại đóng quân, và cũng không biết mục đích hành quân là gì. Khoảng 5h chiều ngày mùng 7, đại đội tới trấn Yển Chưởng, một thôn trọng yếu dưới chân núi Trung Điều, Sư Trưởng mới lệnh đóng trại nghỉ ngơi. Chúng tôi nghỉ ngơi ở đó ba ngày, để hồi phục sức lực vì hành quân xa mà đã mất đi.

Buổi tối cùng ngày đến trấn Yển Chưởng, khi tôi hướng về linh mục Lôi tỏ vẻ vẫn còn “Sợ hãi” đối với hậu quả của “Việc cứng nhắc nghe lệnh” của ngài ấy, ngài ấy vẫn là không đồng ý tác phong của tôi, nói: “Quân nhân lấy phục tùng làm căn bản, tu sĩ lấy vâng phục làm đầu. Cha không nói lo lắng hôm nay của anh không đúng, nhưng cũng không nên lo lắng quá nhiều….

Tôi cúi đầu trước linh mục Lôi, và kết thúc trận lục đục này.

CHI PHỐI HOÀN CẢNH

Chúng tôi đã ở trấn Yển Chưởng nghỉ ngơi ba ngày, liền bắt đầu lấy “Núi Trung Điều” làm căn cứ để bố trí việc quân. Nhưng việc quân thường là việc bảo mật, nên chúng tôi cũng không có cách nào để biết nội dung tỉ mỉ mà Bộ chỉ huy triển khai, và chỉ biết ngày 10 tháng 7 phải cùng với Bộ chỉ huy Sư đoàn tiến đến nơi cao của núi Trung Điều. Trước khi xuất phát, cũng chính là lúc bình minh của ngày mùng 10, chúng tôi đã nghe không ít tiếng đạn pháo, âm thanh ấy có xa có gần chứng minh địch và ta đang giao tranh với nhau. Bởi vì không có thương vong, nên Sư Trưởng lệnh cho chúng tôi theo ngài ấy lên núi.

Đi đường núi một ngày, càng đi càng cao, cũng càng hiện tỏ vẻ hoang vắng. Cả đoạn đường không thấy bóng người, đông một gác nhà tranh, tây một hang động nhỏ, mà chưa hề gặp lấy một hình dáng gọi là ngôi làng.

Trời không chiều lòng người, ba giờ chiều hôm ấy bắt đầu đổ mưa. Đời sống quân nhân chẳng ngại gió mưa, vậy nên vẫn theo lệ thường mạo hiểm hành quân. Tới hoàng hôn, Sư Trưởng hạ lệnh cắm trại, cắt cử các đơn vị tự đi tìm nhà dân ở quanh đó để trú ngụ. Tôi đã tìm rất lâu mới tìm được cho Bộ chỉ huy Đội cứ thương một căn phòng nông cụ và một mái hiên đặt cối xay, để linh mục Lôi và những viên chức trú ngụ. Rất nhiều binh sĩ, ngay cả vệ binh của Sư Trưởng cũng ở đó, đều dựng lều tránh mưa. Nhưng thứ khiến chúng tôi cảm thấy thống khổ là: trận mưa này không phải mưa lớn, mà là mưa rả rích, mưa liền cả 8 ngày trời. Càng kỳ quái hơn là: Sư Trưởng không cho phép tới những nơi khác, tìm những thôn trang lớn hơn để trú ngụ. Chúng tôi vì vậy chỉ đành như thế, chịu khổ cả tuần.

Làm thế nào để xóa đi những ngày vắng lặng này? Phần lớn quân nhân bình thường đều lấy xoa mạt chược làm thứ tiêu khiển; giáo dân của đội cứu thương thì lấy đánh cờ để giết thời gian. Linh mục Lôi không cho phép tu sĩ chúng tôi chơi cờ, ngài ấy ngoài một ngày hai lần giảng Thánh Kinh cho chúng tôi, thì khuyên chúng tôi luyện tập viết chữ. Bản thân ngài ấy bên người thường mang theo bút lông và mực thơm. Mỗi khi đến nơi nào đó, ngài ấy liền tìm phiến đá phẳng làm nghiên mực, tự làm nước mực, lấy bút lông viết nhật ký. Ngài ấy ngoài ra còn giáo huấn chúng tôi: “Anh em đừng để hoàn cảnh chi phối, nhưng phải chi phối hoàn cảnh”.

KHÔNG TĂNG LƯƠNG, NHƯNG TĂNG CÔNG VIỆC

Khi linh mục Lôi lần đầu bàn bạc với Sư Đoàn 12 thành lập đội cứu thương, cục trưởng Hà, cục trưởng Cục Quân Y đã bàn bạc vấn đề đãi ngộ với ngài ấy, lấy ra một tờ “Giấy biên chế đội y tế”, và thông báo số lượng kinh phí hành chính cũng như lương thưởng quan binh các cấp. Linh mục Lôi nói, tôi không cần xem cái giấy biên chế phức tạp này, chúng tôi không cần cấp bậc, không cần lương, chúng tôi cần công việc.

— Các người không thể không ăn cơm chứ!

— Cục trưởng cung cấp quần áo thực phẩm cho chúng tôi là được rồi!

— Cũng phải ăn điểm tâm chứ!

— Tùy ý cho vậy!

Hai người tranh luận hồi lâu, cuối cùng quyết định phát cho mỗi người mỗi tháng 7 đồng 5 hào. (đó là đãi ngộ của binh loại hai thấp nhất trong quân đương thời). Từ tháng 9 năm 26 tới tháng 6 năm 27, mười tháng này chúng tôi đều là lãnh theo số lương ấy.

Tháng 7 năm 27, sau khi chúng tôi theo quân đồn trú ở núi Trung Điều, có một ngày, ở văn phòng phụ tá của Bộ chỉ huy Sư đoàn có một vị phó quan họ Kiều, anh ta là một giáo hữu, đã đến nói chuyện phiếm với tôi và hỏi tới vấn đề đãi ngộ của đội cứu thương. Tôi theo sự thật mà nói với anh ta:

— Một tháng 7 đồng rưỡi.

— Theo biên chế, khoản dư thì như thế nào?

— Chúng tôi không dòm ngó tới.

— Khoản tiếp kiệm, anh em không lãnh, cũng không nhất định trả về quốc khố. Tại sao không lãnh, để làm nhiều việc tốt hơn?

— Có cơ hội sẽ trò chuyện với linh mục Lôi.

Sau khi phó quan Kiều đi, tôi đem ý tốt của anh ấy báo cáo với linh mục Lôi, ngài ấy không chút suy nghĩ lệnh cho tôi im lặng. Qua vài ngày, phó quan Kiều lại nói việc này với phó đội trưởng Bảo Lộc và quan y Lưu Tử Hanh. Họ kéo tôi lần nữa đi thương lượng với linh mục Lôi. Linh mục Lôi hỏi:

— Phải chăng anh em dự định tăng lương hả?

— Không phải.

— Lãnh nhiều lương có tác dụng gì?

— Làm việc tốt.

— Việc tốt gì?

— Để mua thuốc đặc dụng cho thương binh, sắm thêm dụng cụ phẫu thuật, mua thêm thực phẩm dinh dưỡng……

— Anh em chắc chắn không tăng lương, mà là làm nhiều việc tốt hơn phải không?

— Đương nhiên!

Linh mục Lôi dưới sự đảm bảo của mấy vị cán sự “Không tăng lương, làm nhiều việc thiện”, cho phép chúng tôi như biên chế lãnh được mức lương như quy định. Dưới sự chỉ dẫn của phó quan Kiểu, tôi trực tiếp liên lạc với cục Quân Nhu — Bởi vì trước đây do Cục Quân Y phát lương— Tháng 7, phần lương của chúng tôi lãnh sẽ nhiều hơn mấy tháng trước đó. Cụ thể: đội trưởng mỗi tháng lãnh 120 đồng; quan y, phó đội trưởng,… mỗi người 80 đồng, còn lại là 60 đồng, 40 đồng,… nhưng mọi người vẫn theo như lời hứa của linh mục Lôi, mỗi người như cũ chỉ lãnh 7 đồng rưỡi, khoản còn dư lại dùng để làm việc tốt. Tháng đầu tiên, linh mục Lôi liền phái người tới hậu phương mua hơn 300 đồng dược phẩm và dụng cụ. Và để gia tăng đồ ăn cho thương binh, có đoạn thời gian, chúng tôi mỗi ngày giết một con lợn cho thương binh ăn.

Sự “Ngu ngốc” này của linh mục Lôi đã thu được sự tán dương của toàn thể Sư Đoàn, nhưng cũng đã gây ra không ít phiền toái. Triết lý nhân sinh của linh mục Lôi chính là “Chuyên môn tìm phiền phức”. Nhiều thương binh thà rằng lưu lại ở đội cứu thương chúng tôi, chứ không muốn chuyển tới bệnh viện dã chiến.

Không lâu sau, việc này cũng đến tai sư trưởng Đường, ông ấy nghe thấy thì cảm động sâu sắc. Ngày nọ liền gọi linh mục Lôi tới Bộ chỉ huy Sư đoàn, hỏi linh mục Lôi có thể tiếp quản bệnh viện dã chiến hay không. Linh mục Lôi đáp ứng suy nghĩ việc này. Sau đó 6 tháng, ngài ấy đã mời đến tiền tuyến một môn sinh mà ngài ấy rất tự hào  — Giáo sư Y học Tiêu Tế, để đảm nhiệm chức viện trưởng bệnh viện dã chiến, đồng thời phái mấy vị tu sĩ đến hỗ trợ, chính thức tiếp quản bệnh viện dã chiến của Sư Đoàn 12. Chuyện này sẽ nói sau, tạm thời gác nó qua một bên vậy.

KHÔNG PHẢI TƯỢNG ĐẤT, LÀM SAO PHẢI  SỢ MƯA RỪNG

Sau khi Sư Đoàn 3 đóng quân ở “Núi Trung Điều”, hai tháng gần nhất, ngoài mấy trận đánh du kích ngẫu nhiên phát sinh, nên có một ít thương binh cần đến chúng tôi cứu trợ, còn lại thì ngày thường tương đối nhàn hạ. Vì thế, tu sĩ chúng tôi lại hồi phục đời sống của “Chân Phúc Viện theo quân”: cùng nhau cầu nguyện, nghe giảng Thánh Kinh, hội họp tu đức (giờ cảm tưởng),…

Đêm nọ, chúng tu sĩ đang vây quanh linh mục Lôi trong “Giờ cảm tưởng”, đột nhiên hai người quân nhân đi tới, yêu cầu linh mục Lôi phái người mang “Túi cứu thương” đi cứu chữa một quân nhân bị thương. Linh mục Lôi lập tức phái 2 tu sĩ trẻ đi theo họ. Lúc đó trời đang mưa rất nặng hạt, trời tối đường trơn, tôi theo bản năng đứng dậy xin linh mục Lôi cho phép họ dừng mưa sẽ đi. Linh mục Lôi nghiêm mặt nói với tôi: “Bọn họ không phải người đất, không sợ mưa rừng!”. Hai vị tu sĩ dưới con mắt bái phục của chúng tôi mạo hiểm mưa lớn ra đi.

TRỔ ĐÒNG THOÁT XÁC

Đương thời, nhân sự kiện “Lão Tây Khai” Thiên Tân và Báo Ích Thế, Đại danh của linh mục Lôi Linh Viễn trong các tầng lớp xã hội ở Hoa Bắc, thật sự có thể nói là nhà nhà đều biết; nhưng với việc đề xướng thành lập giáo hội địa phương, và thúc đẩy truyền chức cho 6 vị giám mục Trung Quốc đầu tiên, khiến đại danh của ngài ấy vượt ra khỏi Giáo Hội Trung Quốc, và cũng tương đối vang dội trong cả Giáo Hội toàn cầu. Nhưng, trong xã hội thế tục ở miền nam Trung Quốc, đặc biệt ở trong giới quân chính, có cả hàng tá người cũng không biết linh mục Lôi là người như thế nào. Có thể lấy ngay những quan binh của Quân Đoàn 3 Trung Ương mà chúng tôi phục vụ làm ví dụ, lúc chúng tôi mới đến, họ vẫn cho rằng linh mục Lôi là “Kẻ ăn xin cao cấp” mà thôi!

Mùa xuân năm 27, trong trận hỗn chiến nhiều ngày ở Đông Nam Tấn, khi mọi người đối với việc lo liệu cho thương binh đều bó tay bất lực, linh mục Lôi với nghị lực vô song, sự nhẫn nại kinh người, và mưu trí trác tuyệt, đã không để rớt lại bất cứ thương binh nào, tất cả đều được an toàn chuyển đến bệnh viện ở hậu phương. Chuyện “Chốc lát” này đã chấn động binh sĩ toàn quân, Quân đoàn trưởng Tăng Vạn Trung đã rơi nước mắt nói với linh mục Lôi: “Ngài là ân nhân của toàn quân chúng tôi!”; Sư trưởng Đường Hoàn Nguyên gia tăng thêm một câu: “Ngài là từ phụ của toàn thể quan binh Sư Đoàn 12 chúng tôi!

Quân đoàn trưởng Tăng sau khi gặp mặt cảm ơn linh mục Lôi, đã đánh điện lên cho Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch, đem thành tích đội cứu thương, nhân cách, cũng như tinh thần phục vụ của linh mục Lôi làm thành báo cáo tỉ mỉ xác thực. Sau khi chúng tôi tiến vào núi Trung Điều không lâu, Ủy viên trưởng Tưởng Giới thạCh đã đánh điện hồi đáp: ngoài việc tặng cho linh mục Lôi “Huân chương hạng hai Hải Lục Không Giáp” và bằng khen, còn mời linh mục Lôi đến Chính phủ Trung ương gặp mặt trò chuyện.

Linh mục Lôi liền đem công việc của đội cứu thương tạm thời giao phó cho tu sĩ Lỗ Đạo, mang theo phó đội trưởng Bảo Lộc và tôi, ngày 8 tháng 9 khỏi hành từ núi Trung Điều, nhọc nhằn mấy ngày, rồi cũng đến Hán Khẩu vào ngày 12 cùng tháng — lúc ấy Ủy viên trưởng có trụ sở tại Vũ Hán, chỉ huy toàn dân kháng chiến.

Từ đây, ba chữ “Lôi Minh Viễn” liền trổ đòng thoát xác, từ núi Trung Điều truyền tới Trung Ương; rồi lại từ Trung Ương nhờ sức phát tán của báo đài, truyền tới khắp nơi trong cả nước. Lúc ấy ở Hán Khẩu dường như mọi ngày đều có tin tức về linh mục Lôi. Ngay cả quân địch nghe cũng đều tâm kinh khiếp sợ. Sau này, trên chiến địa bắt được một tên Hán gian, anh ta khai nhận bị quân Nhật mua chuộc, từ Bắc Bình đặc biệt đến chiến địa mưu sát Lôi Minh Viễn.

CHÍ LỚN CHƯA THÀNH

Sau khi tới Hán Khẩu, chúng tôi tạm thời ở nhờ tại tòa giám mục. Đêm hôm đó, Phó ủy viên Phùng liền hạ cố đến thăm linh mục Lôi. Như chúng ta đã biết, Phùng Ngọc Tường là một người theo Đạo Công Giáo, cũng thường được gọi là “Tướng quân Kitô”. Anh ta nhìn thấy linh mục Lôi, lời ăn tiếng nói và điệu bộ biểu cảm đều tỏ lộ một phong thái “Trách trời thương dân”. Anh ta nói, anh ta cũng mới trở về từ chuyến đi thị sát Chiến Khu 3, anh ta cảm thấy chiến sĩ tiền tuyến chẳng thiếu lương thực đạn dược, thứ cần thiết nhất là quân nhân cứu thương anh hùng không sợ hy sinh. Anh ta tích cực thuyết phục linh mục Lôi tổ chức đội cứu thương mang tính toàn quốc, đem tinh thần đội cứu thương Công Giáo ở núi Thái Hành phân chi tới mọi miền chiến địa.

Linh mục Lôi là người rất mạnh mẽ, nói làm là làm. Ngài ấy lập tức hỏi Phó ủy viên Phùng:

— Ngài muốn bao nhiêu quân nhân cứu thương?

— Càng nhiều càng tốt, tạm thời định 2 vạn đi!

— Phát động 2 vạn giáo dân, tôi nghĩ không thành vấn đề.

— Cực tốt rồi! ngài kiến nghị công việc đó với Ủy viên Tưởng đi!

Qua hai ngày, Ủy viên trưởng triệu kiến linh mục Lôi, đó là lần đầu tiên hội ngộ, và chỉ trò chuyện khoảng 5 phút. Ủy viên trưởng nói: “Công việc kháng chiến của Lôi tiên sinh ở tiền tuyến, bản thân tôi sớm đã nghe biết, và cũng thập phần bội phục. Nhưng, phạm vi Sư Đoàn 12 quá nhỏ rồi, không thể khiến tiên sinh phát huy sức mạnh lớn hơn. vì thế, xin ngài đến lập kế hoạch công việc lớn hơn”. Linh mục Lôi lập tức đề nghị hai kế hoạch: thứ nhất, tới ngoại quốc tuyên truyền, giành lấy sự chi viện của quốc tế; thứ 2 là mở rộng đội cứu thương Công Giáo.

KHÔNG ĐÁNG MỘT QUẢ BOM

Sau khi tôi và linh mục Lôi đến Hán Khẩu ngày 20 tháng 9 năm 27 Dân Quốc, liền trú ngụ ở tòa giám mục. Ban đầu giám mục Hi luôn biểu lộ rất hoan nghênh sự có mặt của chúng tôi, và chiêu đãi chúng tôi cũng rất thân thiết. Sau ba ngày, giám mục còn đặc biệt mời hai chúng tôi đến phòng của ngài ấy. Khi chúng tôi đến phòng của giám mục, vẻ mặt u sầu và thái độ ngập ngừng như muốn nói rồi lại thôi của ngài ấy, khiến không khí buổi gặp gỡ có chút gì đó sượng sượng khó diễn tả, nhưng cuối cùng sự tình không mấy vui vẻ đó vẫn phải nói ra. Đức giám mục ngập ngừng nói:

— Linh mục Lôi… cá nhân cha… vô cùng hoan nghênh con trú ngụ ở đây, nhưng… tin tức bên ngoài… rất không hay…; con… trú ngụ ở đây…, thì thật bất lợi cho giáo dân……

— Dạ! Có tin tức gì ạ?

— Nghe nói quân Nhật đã nắm được tin tức con ở đây, và muốn dùng máy bay để oanh kích ngôi giáo đường này.

— Con là một “Linh mục tép riu”, vóc người lại nhỏ bé, thực sự không đáng một viên đạn, đâu cần phải phô trương như thế! …

— Đừng nói như thế! Tình báo Nhật vô cùng nhanh chóng, sớm đã nghe ngóng được tin tức, ông Tưởng điện triệu con đến, dự tính ủy thác con đảm nhiệm chức vụ quan trọng!

— Vậy thì, giám mục có gì chỉ bảo! xin dạy dỗ, con nhất định vâng nghe!

— Đây có một vị giáo hữu tên là Liêu thái thái. Nhà cô ta rất nhiều phòng, lại có cả thánh đường cá nhân. Cô ta rất hoan nghênh con đến đó trú ngụ, và ta, ta cũng cho phép con cử hành thánh lễ và đặt Mình Thánh Chúa trong ngôi nhà thờ nhỏ của cô ta.

— Cô ta không sợ máy bay Nhật đến ném bom nhà mình sao?

— Không! Không sợ! Nhà cô ta ở trong “Tô giới Pháp”, quân Nhật không giám thả bom đâu!

— Ra là như thế! Vậy nếu giám mục cũng nguyện ý, con sẽ di chuyển ngay ạ!

Giám mục Hi nghe những lời này của linh mục Lôi, như trút được gánh nặng, nét mặt lập tức biến chuyển 180 độ, vui mừng bắt tay từ biệt linh mục Lôi, và nói sau này nhất định sẽ tới đó thăm linh mục Lôi.

Khi Tôi theo linh mục Lôi trở lại phòng thu xếp mớ hành trang đơn giản, chuẩn bị rời khỏi tòa giám mục, biểu cảm của linh mục Lôi rất nghiêm túc, giống như là có thứ gì đấy tràn ngập trong lòng nhưng lại không thể phát tiết ra. Tôi dùng miệng lưỡi thăm dò hòng khai phá bí mật của ngài ấy:

— Cha à! Cha không muốn di chuyển sao?

— Không phải là cha không muốn, chỉ là không muốn tới “Tô giới Pháp”. Con trai, con biết ta cả nửa đời vì phản đối sự tồn tại của “Tô giới”, mà làm ra rất nhiều tranh đấu, và cũng phải chịu biết bao khổ đau. Bây giờ, cha cũng sắp ở trong……!

Tâm tình phẫn nộ buồn rầu khiến ngài ấy ngay cả ba chữ “Tô giới Pháp” cũng không muốn thốt ra lời trên môi. Lấy tình trạng lúc đó mà nói, chí ít tạm thời đành phải chuyển tới ở nhà bà Liêu mà thôi. Vậy nên, để khiến linh mục Lôi vui vẻ hơn, tôi đã nói một lời hài hước: “Cha à! Thứ mà cha đến ở là nhà của bà Liêu; có người hỏi đến, chỉ cần nói là ở nhà của bà Liêu, không phải được rồi sao!” Linh mục Lôi quả nhiên cười rồi.

Nói đoạn, xa xa chúng tôi đã bà Liêu cùng con trai mở cửa xe, bước chân thoăn thoắt tiến vào tòa giám mục, để  đón linh mục Lôi tới nhà bà ta trú ngụ. Chúng tôi theo đó cũng cáo từ giám mục, theo mẹ con bà ấy trở về ngôi nhà của họ. Bà ấy nhường phòng ở và phòng khách dưới lầu cho linh mục Lôi sử dụng; còn bà ấy và đám nhỏ dọn lên ở trên lầu (chồng bà, ông Liêu vì kinh doanh bên ngoài, nên mỗi tuần đều đặn lưu lại nhà đôi ba lần). Sân vườn của nhà bà Thái cũng tương đối rộng, ngôi thánh đường nhỏ ở gần chỗ cửa lớn, là một kiến trúc độc lập cách ly với nhà ở, được trang trí vô cùng trang nghiêm đẹp đẽ. Chúng tôi ở đó hơn một tháng, những cũng chẳng nhìn thấy bất cứ người Pháp nào. Linh mục Lôi vì thế cũng đã quên hẳn đi, bản thân chính là đang ở trong tô giới Pháp.

NHÀ BÀ LIÊU? NHÀ ÔNG LÔI? HAY CHÂN PHÚC VIỆN?

Linh mục Lôi vốn là một danh nhân; hiện tại lại khoác thêm một danh xưng vinh dự “Lão nhân kháng chiến”, theo lệnh chỉ huy cao nhất gọi đến, từ tiền tuyến trở về Vũ Hán, trung tâm chỉ huy kháng chiến; hơn nữa, cộng thêm tài năng diễn thuyết động lòng người,… tất cả như hợp lại đưa tên tuổi của ngài, ba chữ “Lôi Minh Viễn” vang chấn khắp miền Vũ Hán. Báo trí mỗi ngày dường như đều có đăng tin tức liên quan đến ngài ấy. Vì thế, “Nhà bà Liêu” vô tình đã trở thành “Nhà ông Lôi”. Mỗi ngày, từ sáng sớm đến tối muộn, phía trước cổng nhà, đầy rẫy những khách nhân đến rồi đi, chỉ mong sao có thể được gặp linh mục Lôi. Đối diện với cảnh tượng ấy, Bà Liêu không chỉ không cảm thấy phiền phức, trái lại còn cho rằng đó là vinh dự lớn lao đối với bản thân, và nguyện ý dốc mọi tâm can cũng như tài lực chăm sóc hiệp trợ công việc của linh mục Lôi.

Linh mục Lôi vốn đã dự tính trước kế hoạch tổ chức đội cứu thương Công Giáo toàn quốc. Mặc dù kế hoạch  này vẫn chưa thực hiện được, nhưng một kế hoạch công việc khác đã manh nha thành hình trong trái tim ngài (sau này sẽ bàn tới), đồng thời cũng đã được ủy viên trưởng phê chuẩn thông qua. Để tổ chức công việc mới này, linh mục Lôi đã mời đến Hán Khẩu Phó đội trưởng Đội cứu thương, tu sĩ Bảo Lộc và tu sĩ Lưu Ích Chi đang đi học ở Tây An, cùng đến ở với tôi tại nhà bà Liêu. Chúng tôi thân khoác áo dòng đi đi lại lại vô cùng khiến người khác chú ý. Có người còn nói, nơi đây như là một “Chân Phúc Viện” vậy.

Quả thật, Linh mục Lôi cũng rất hy vọng đem không khí của Chân Phúc Viện chất đầy ngôi nhà này. Ngài ấy gọi chúng tôi dậy từ rất sớm, cùng nhau suy niệm, công khai đọc Kinh Thần Vụ, tham gia Thánh Lễ (bà Liêu mỗi ngày cũng đều tham dự). Khi có thời gian rảnh, linh mục Lôi thường kể chuyện cũng như giảng giải Thánh Kinh cho những đứa trẻ nhà bà Liêu. Có khi ngài ấy cũng kêu chúng tôi lần lượt kể những câu chuyện trong Thánh Kinh cho bọn trẻ cũng như những người phục vụ trong nhà ấy.

Không lâu sau khi kháng chiến thắng lợi, vào khoảng tháng 12 năm 34 Dân Quốc, tôi có đến Hán Khẩu thăm bà Liêu, bà ấy cảm động rơi nước mắt hồi tưởng lại đoạn thời gian ấy, nói: “Lúc ấy có người đã nói, nhà tôi là “Chân Phúc Viện”, kỳ thực một chút cũng không sai… một tháng đó quả là thời gian hạnh phúc nhất cả đời tôi…”.

MỞ RỘNG CÔNG VIỆC CỨU QUỐC

Cuối tháng 9 năm 27 Dân Quốc, sau khi linh mục Lôi sanh non Đội cứu thương Công Giáo Toàn Quốc tại Hán Khẩu không lâu, có một vị giáo hữu huyện Hà Bắc, tên gọi là Lý Trung Tam, đã từng đi học ở Đức, hiện tại đang công tác trong chính phủ tỉnh Hà Bắc. Anh ta vì việc công mới từ chiến địa – khu vực Tấn Ký Dự — trở về Vũ Hán, và thuận lợi đến thăm linh mục Lôi.

Trong cuộc nói chuyện, khi bàn về đời sống dân chúng ở chiến địa vừa khổ, lại vừa thiếu tổ chức, thực sự đã lãng phí không ít lực lượng kháng chiến, nên anh ta kiến nghị linh mục Lôi phát động lực lượng ái quốc Công Giáo, tổ chức những thanh niên tri thức Công Giáo đi tới chiến địa, không chỉ cứu giúp thương binh, mà còn thúc đẩy dân chúng tại chiến địa hiệp trợ Quốc Quân kháng chiến. Linh mục Lôi tức khắc đã tiếp thu kiến nghị này, và mời anh ta phác thảo kế hoạch công tác và điều lệ tổ chức.

Hai ngày sau, anh chàng họ Lý đã đem bản kế hoạch đến. Trải qua nhiều lần nghiên cứu thảo luận và sửa chữa, linh mục Lôi đã đích thân đem bản kế hoạch ấy giao cho Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch. Sau này, sau khi các thành viên của Ủy ban Quân sự trao đổi ý kiến với linh mục Lôi, liền phê chuẩn thành lập một đoàn thể, lấy tên là Đoàn Phục Vụ Dân Chúng Giám Sát Chiến Địa Hoa Bắc (gọi đơn giản là Đoàn Giám Sát), do linh mục Lôi làm Chủ nhiệm, Lý Trung Tam làm Phó chủ nhiệm. Tổ chức mới thành lập nhưng tương đối lớn, số lượng thành viên đã lên tới 400 người. (Đề mục công việc và tổ chức tỉ mỉ, sau này sẽ nói)

Liên quan đến vấn đề kinh phí, số lượng mà Hội quân ủy dự chi đương đối khả quan, nhưng linh mục Lôi vẫn giữ vững tinh thần “Không làm quan, không cần tiền, thuần cứu quốc, thuần phục vụ”, quy định tất cả mọi thành viên, từ chủ nhiệm tới đầu bếp, mỗi người mỗi tháng chỉ lãnh 12 đồng (Bởi vì đương thời vật giá leo thang, nên Đội giám sát lãnh nhiều hơn một chút so với mức đãi ngộ 7 đồng rưỡi của mỗi thành viên Đội cứu hộ). Số tiền còn lại hoàn toàn được sử dụng cho công việc. (Sau này, Hội ủy viên Cứu tế, Bộ Giáo dục, Hội Cứu tế Phật Giáo cũng có bổ sung lượng lớn kinh phí, giao cho linh mục Lôi tiếp ứng cho chiến địa).

Ở đây, nói trước một việc để mọi người hiểu rõ số tiền mà linh mục Lôi sử dụng cho công việc, con số ấy lớn kinh người: sau một năm, chúng tôi ở Dương Thành Sơn Tây đã thu nhận hơn 2000 nạn dân đào thoát khỏi vùng chiến địa, không chỉ cung cấp cho họ thức ăn chỗ ở, mà còn chuẩn bị cho họ những công xưởng nhỏ để gia công sợi bông, dệt vải, đóng giày,..

Sau khi tin tức Đoàn giám sát chính thức thành lập được đăng trên nhiều tờ báo ở Vũ Hán, không chỉ thanh niên trí thức Công Giáo, mà ngay cả thành phần tri thức nói chung cũng liên tiếp đón nhận lời hiệu triệu này của linh mục Lôi, và lần lượt đến báo danh tham gia.

Đầu tháng mười chúng tôi đã có hơn 40 đoàn viên, trong đó có tiên sinh Quách Hồng Quân, một giáo dân Đài Bắc đã qua đời. Ông ấy đã từ bỏ công việc với mức đãi ngộ hào phóng ở hậu phương xung phong gia nhập Đoàn giám sát. Ông ấy sau này còn giữ chức Thư ký Trưởng của Đoàn giám sát, cũng là vị giáo dân đầu tiên mà linh mục Lôi rửa tội tại chiến địa.

NHẤT ĐỊNH KHÁNG CHIẾN TỚI CÙNG

Sau khi ở Vũ Hán hoàn tất thủ tục pháp lý tổ chức “Đoàn Giám Sát Chiến Địa Hoa Bắc”, với hơn 40 thành viên nòng cốt, chúng tôi liền quyết định sớm ngày trở lại chiến địa Hoa Bắc vừa làm việc, vừa tiếp tục chiêu mộ thêm thành viên, đến khi vượt chỉ tiêu mới dừng lại.

Tuyến đường gần nhất từ Vũ Hán đi Hoa Bắc, là ngồi xe lửa từ Bình Hán đến Trịnh Châu. Nhưng khi chúng tôi đang bàn bạc với Cục đường bộ về số chuyến cũng như nhật trình của xe lửa lên phía bắc, huyện Bình Hán bất ngờ bị quân địch chia cắt, vùng ngoại vi Vũ Hán cũng đang ấp ủ một “Trận chiến lớn”. Vì thế, chúng tôi lại nghĩ đến đi xe khách đi qua Tương Dương, Lão Hà Khẩu, rồi đi qua Hà Nam, nhưng cũng vì giao thông trở ngại mà phải hủy bỏ. Trải qua nhiều lần suy đi tính lại, cuối cùng, chúng tôi quyết định ngồi thuyền dọc theo dòng Trường Giang tới Trùng Khánh, rồi lại ngồi xe hơi qua Thiểm Tây đi vào khu vực núi Trung Điều Sơn Tây.

Sau khi ở Vũ Hán tham gia những buổi mừng Lễ Quốc Khánh, ngày 14 tháng 10, chúng tôi bắt đầu lên thuyền theo hướng tây tiến về Trùng Khánh. Đi được ba ngày, từ máy phát thanh ở trên tàu nhận được tin dữ, Vũ Hán và Quảng Châu lần lượt đã thất thủ, hành khách trên thuyền ai nấy đều kinh hoàng bất an, dân chúng ở các bến tàu dọc đường cũng không ngừng biểu lộ thần sắc sợ hãi bất an ấy. Ngoài ra, tin đồn “Giảng hòa” cũng không chân mà chạy loan truyền khắp nơi. (Việc sau này đã chứng mình, Uông Vệ Tinh quả thực đã âm thầm tiến hành việc cầu hòa). Hơn bốn mươi đoàn viên chúng tôi với con tim rực đầy ngọn lửa ái quốc, dường như bị dội một gáo nước lạnh, tạm thời đều cảm thấy nhuệ khí chạm đáy, tinh thần đều như cạn kiệt. Linh mục Lôi lại có chính kiến khác hẳn, thể hiện một tuệ nhãn cao siêu, vì thế tinh thần của ngài ấy càng thêm vui vẻ. Ngài ấy lập tức soạn thảo một bản tuyên ngôn, đại ý là chỉ có kháng chiến mới có thể cứu quốc, chỉ có kháng chiến đến cùng mới có đường sống.

Những đoàn viên cẩn trọng hơn, ngay cả những quan binh do Quân ủy phái đến hiệp trợ tổ chức cũng khuyên linh mục Lôi “Nhẫn nại” một chút, đợi sau khi Ủy viên trưởng phát biểu cáo thị, rồi hãy biểu thị thái độ. Thậm chí có người còn nói với linh mục Lôi: “Nếu Ủy viên trưởng cũng muốn đình chiến, tuyên ngôn ‘Kháng chiến không ngừng’ của ngài không phải là dư thừa, mà còn tỏ lộ sự lanh chanh hấp tấp sao?” Linh mục Lôi lúc ấy lấy giọng điệu kiên quyết đáp: “Tuyên ngôn có thể tạm thời không phát biểu, nhưng tôi cho rằng Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch tuyệt đối sẽ không cầu hòa”.

Quả nhiên không lâu— sau khi Quảng Châu và Vũ Hán thất thủ không tới một tuần, Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch ở Vệ Dương cũng đã công bố với toàn thể quân dân toàn quốc cáo thị “Kháng chiến thực sự mới bắt đầu”, quả đúng như linh mục Lôi đã dự liệu. Thật là “Tư tưởng lớn gặp nhau”, không chút sai lệch.

Sau khi Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch công cáo thư gửi quân dân toàn quốc, lòng dân an định, đó là điều tất yếu, không cần phải nói. Còn linh mục Lôi lại tiến thêm một bước, vui mừng muốn nhảy cẫng lên. Các thành viên của đoàn tập hợp lại trên boong A của tàu, vây quanh linh mục Lôi, không ngừng vỗ tay hoan hô ngài ấy: “Nhất định kháng chiến tới cùng”.

NẮM BẮT CƠ HỘI

Linh mục Lôi bình sinh lưu lại cho chúng tôi không ít những câu cách ngôn xử thế, một trong số đó là “Anh em đừng để hoàn cảnh chi phối, mà phải chi phối hoàn cảnh”. Đồng thời, chúng tôi cũng biết những lời dạy bảo môn sinh của linh mục Lôi, đặc biệt là những “Câu cách ngôn” sâu sắc đều không phải là những lý tưởng suông, nhưng đều là những “Phẩm hạnh” mà ngài ấy đích thân thực hành sau nhiều năm tích lũy học tập. Bây giờ xin đem câu chuyện “Nắm bắt thời cơ, chi phối hoàn cảnh” của ngài ấy, giới thiệu cho mọi người.

Trung tuần tháng 10 năm 27 Dân Quốc, sau khi Vũ Hán, Quảng Châu lần lượt bị thất thủ, khiến lòng người vô cũng hãi sợ hoang mang, đồng thời cái tin đồn hòa giải cũng không ngừng lan truyền khắp nơi, đã trở thành nguồn dữ liệu để mọi người thủ thỉ truyền tai. Mặc dù Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch ở Vệ Dương đã công bố thông cáo “Kháng chiến thực sự mới bắt đầu”, nhưng nhân tâm ở hậu phương nhất thời cũng không thể ngay lập tức phấn chấn trở lại.

Lúc này, chiếc thuyền mà chúng tôi ngồi đã cập bến Nghi Xương, viên thuyền trưởng tuyên bố lưu lại ở đây mười ngày. Vì thế, chúng tôi đành phải lên bờ tìm kiếm tới thánh đường trú ngụ. Giám mục Nghi Xương Cố Học Đức (Msgr. Gubbels) là bạn hữu của linh mục Lôi, đã rất nhiệt tình chiêu đãi chúng tôi.

Do bởi sự thất thủ của Vũ Hán, không khí lo lắng hãi sợ đã bao phủ mọi ngóc nghách trong thành Nghi Xương, ngay cả niềm tin đối với cuộc kháng chiến cũng bị lung lay ít nhiều. Linh mục Lôi là người rất biết nắm bắt cơ hội, ngài ấy trước tiên đi thăm hỏi tướng quân Lưu Chí, là Tư lệnh Quân Cảnh Bị, xin ngài ấy tổ chức đại hội diễn thuyết, để cổ vũ và thổi bùng tinh thần kháng chiến, cũng như giữ vững niềm tin “Kháng chiến tất thắng” trong dân chúng. Lưu tướng quân nghe xong những lời này của linh mục Lôi, thì vui sướng vỗ tay tán thưởng không ngừng, lập tức sai quân cùng với các đơn vị liên quan hiệp trợ điều động tổ chức đại hội diễn thuyết, do linh mục Lôi làm chủ giảng. — Từ đó, Lưu tướng quân với linh mục Lôi đã trở thành bạn tốt. Đến tuổi xế chiều, Lưu tướng quân thường xuyên lui tới chuyện trò với các môn sinh của linh mục Lôi ở Đài Loan, và nhờ đọc Lôi Minh Viễn Truyền kỳ mà đã lãnh nhận Phép Rửa gia nhập Giáo Hội Công Giáo.

Linh mục Lôi lần đầu diễn thuyết ở Nghi Xương là tại sân vận động của một ngôi trường trung học, với khoảng hơn 2000 người nghe. Buổi diễn thuyết do tướng quân Lưu Chí chủ trì. Sau khi đem thành tích kháng chiến của linh mục Lôi ở tiền tuyến làm thành một lời giới thiệu đơn giản, Lưu tướng quân liền mời linh mục Lôi bắt đầu diễn thuyết.

Tài năng diễn thuyết của linh mục Lôi khi ấy là thứ đã nổi danh thế giới. Người quen biết linh mục Lôi khi ấy cũng đều biết đến điểm này, vậy nên không cần nhiều lời giới thiệu. Đặc biệt nơi các hội trường lớn, ngài ấy rất biết cách nắm bắt tâm lý của người nghe. Lần diễn thuyết này thật sự đặc sắc vô cùng: ngài ấy đem công cáo “Kháng chiến thực sự mới bắt đầu” mà Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch mới phát biểu trở nên bài giảng “Sống”. Ngài ấy không dùng những lý luận cao siêu, mà dùng những câu chuyện “Sống”, những câu chuyện quân ta đánh bại quân địch mà đích thân ngài ấy đã tận mắt chứng kiến ở núi Thái Hành cũng như ở núi Trung Điều, để làm lời giải thích cho bài công cáo của Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch, cũng như  niềm tin “Kháng chiến tất thắng” của bản thân ngài. Ngài ấy nói với mọi người: Đừng vì “Sự thất bại của một thành” mà trở nên tiêu cực, chỉ cần người nước ta còn, “Quốc Hồn” còn, thì thành lũy bị địch chiếm nhất định sẽ trở lại tay chúng ta…..

Lần diễn thuyết này vô cũng thành công, không chỉ thính giả ở hiện trường cảm động sâu sắc, vỗ tay không ngừng, và tinh thần kháng chiến tức thời nâng cao; mà còn có thể nói toàn bộ dân thành Nghi Xương đều cùng nhau chia sẻ niềm vui “Trong hy vọng kháng chiến thắng lợi”. Bởi vì ngày hôm sau, các tờ báo lớn trong nội thành Nghi Xương đều hàng loạt dùng tiêu đề lớn để đưa tin bài diễn thuyết của linh mục Lôi, cũng như giới thiệu những thành tích anh hùng kháng chiến ở tiền phương của ngài ấy. Thế là từ các trường học, các đoàn thể, đến các tổ chức xã hội… đều lần lượt mời ngài ấy tới diễn thuyết, các báo đài dường như mỗi ngày đều có tin tức ngài ấy diễn thuyết. Danh xưng “Lão nhân kháng chiến” sau khi nổi danh ở Vũ Hán, cũng bắt đầu tạo nên những làn sóng chấn động tại Nghi Xương, khiến cho không khí u ám vốn có của Nghi Xương dần dần tan biến đi hết. Niềm tin kháng chiến tất thắng tức thì như một ngọn lửa đốt cháy khắp mọi con tim của người dân.

10 ngày trú ngụ ở Nghi Xương đối với linh mục Lôi đều không phải là thời gian nghỉ ngơi, cũng chẳng phải là cơ hội đi thưởng ngoạn danh lam thắng cảnh, nhưng là một giai đoạn công việc rất bận bịu. 10 ngày qua đi, chúng tôi lên thuyền tiếp tục men theo dòng Trường Giang hướng về Trùng Khánh. Khi thuyền của chúng tôi đi qua Tam Hiệp, cảnh sắc ở đây vô cùng tuyệt mỹ, linh mục Lôi đã xem, và cảm thấy Trung Quốc thật sự vĩ đại, khiến niềm tin “Kháng chiến tất thắng của ngài ấy” lại càng gia tăng thêm gấp bội.

Thuyền tới thành phố cảng Vạn Châu, Tứ Xuyên, lại phải dừng lại một số ngày. Chúng tôi cũng lạc quan nghỉ ngơi vài ngày, để giải tỏa những khó khăn khi chòng chành trên mặt nước.

Thật không ngờ, “Ngọn lửa kháng chiến” mà linh mục Lôi đã đốt lên ở Nghi Xương, cũng đã theo báo chí lan tới Vạn Châu. Vừa khéo Vạn Chậu cũng là một Giáo phận Bản địa mới thành lập, Giám mục trông coi giáo phận mới này là giám mục Vương, một người vốn cũng rất ngưỡng mộ linh mục Lôi, và từ lâu cũng đã muốn bày tỏ sự ngưỡng mộ ấy. Lúc này, khi nghe nói linh mục Lôi muốn dừng lại làm khách trong giáo phận của mình, thì vạn phần vui vẻ; ngài ấy không chỉ mời linh mục Lôi đến tòa giám mục mà tiếp đãi như khách quý, hơn nữa lại liên kết với các sĩ phu đương địa long trọng đón mừng linh mục Lôi, và sắp xếp một chuỗi những buổi diễn thuyết nghiêm túc và cẩn thận.

Chúng tôi ở lại Vạn Châu 15 ngày, giống như ở Nghi Xương vậy, linh mục Lôi không để mất đi bất cứ cơ hội nào để tuyên truyền chủ trương “Kháng chiến tới cùng”.

BÁO ÍCH THẾ PHÁT HÀNH TRỞ LẠI

Khi linh mục Lôi đang bận bịu với công việc “Tuyên truyền kháng chiến” ở Vạn Châu, một ngày nọ, đột nhiên nhận được điện báo của Tổng Giám mục Vũ Bân (sau đó thăng Hồng Y) từ Trùng Khánh truyền tới, lập tức mời linh mục Lôi tới Trùng Khánh, có việc quan trọng cần bàn bạc. Sau khi linh mục Lôi tiếp nhận điện báo, một mặt phân phó thành viên Đoàn giám sát ngồi thuyền theo đường thủy tới Trùng Khánh, một mặt lệnh cho tôi theo ngài ấy vào ngày 14 tháng 11 đi máy bay tới Trùng Khánh. Sau khi tới Trùng Khánh, đêm hôm đó liền đi bái kiến giám mục Vu. Ngài ấy gấp rút gặp gỡ với linh mục Lôi, vốn dĩ là muốn phát hành trở lại “Báo Ích Thế”.

Như đã biết, “Báo Ích Thế” là do linh mục Lôi Minh Viễn một tay thành lập từ năm đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc tại Thiên Tân. Năm Dân Quốc thứ 5 lại phát hành “Bản Bắc Bình” tại Cố Đô. Hai nhật báo tư nhân này luôn luôn dưới sự chỉ đạo của linh mục Lôi, tận lực với trách nhiệm “Tuyên truyền chân lý, duy trì chính nghĩa”, nên Báo Ích Thế đã phát huy tác dụng cực đại. Sau biến sự “918”,  nơi có lập trường kiên quyết nhất, ngôn luận nhiệt liệt nhất phản đối Chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản chính là “Báo Ích Thế”.

Đương thời linh mục Lôi không hiểu rõ nỗi đớn đau nhẫn nhục chịu khổ của Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch, nên đã rất bất mãn đối với những chiến lược kháng Nhật của chính phủ, nên “Báo Ích Thế” mà ngài ấy chủ tọa thường xuyên không kiêng nể mà phê bình tinh thần “Không kháng Nhật” của chính phủ, và cũng vì thế mà tờ báo này cũng mau chóng nổi danh khắp vùng Hoa Bắc. Nhưng gần đây ở Hán Khẩu, bản thân linh mục Lôi đã nhiều lần yết kiến cũng như ăn uống trò chuyện thân mật với Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch, qua đó mới hoàn toàn thông hiểu cá tính và tâm trí của họ Tưởng, nên tự cảm thấy bản thân như một đứa trẻ trước mặt họ Tưởng vậy. 

Lại nói sau “Biến sự Thất Thất”, Bình Hán tiếp tục rơi vào tay giặc. “Báo Ích Thế” hay còn gọi là báo “Kháng Nhật” bị buộc ngừng xuất bản. Linh mục Lôi liền tổ chức đội cứu thương, theo quân thực tế làm công việc “Kháng chiến cứu hộ thương binh”. Bây giờ giám mục Vu có ý trù tính phát hành trở lại “Báo Ích Thế”, nên linh mục Lôi rất lấy làm vui mừng. Linh mục Lôi và giám mục Vu là bạn tương tri đã lâu, đêm trước ngày ra hỏa tuyến, linh mục Lôi đã viết thư đem hai hội dòng, Gioan Tẩy Giả và Têrêsa, mà ngài ấy mới thành lập ủy thác cho giám mục Vu coi sóc. Giờ đây nhìn thấy “Báo Ích Thế” mà đích thân tay mình gây dựng cũng đã có nơi gửi gắm, liền không chút do dự để giám mục Vu phát hành trở lại.

Và như thế, sau một tháng, ngày 8 tháng 12 năm 27, Báo Ích Thế dưới sự chủ tọa của giám mục Vu và phó giám mục Ngưu Nhược Vọng, đã chính thức xuất bản trở lại tại Côn Minh, Vân Nam.

Không lâu sau đó, Báo Ích Thế từ Côn Minh chuyển đến xuất bản ở Trùng Khánh, là Phụ đô của chiến sự. Sau thắng lợi, dưới như nhiệt tình đôn thúc và chỉ đạo anh minh của giám mục Vu, Báo Ích Thế cùng lúc xuất bản ở cả 6 thành phố lớn, từ Trùng Khánh, Tây An, Bắc Bình,… kéo qua cả Thiên Tân, Nam Kinh, và cả Thượng Hải nữa. Đây có thể xem như thời gian thịnh vượng nhất của Báo Ích Thế.

Con mắt nhìn người” của Linh mục Lôi, “Sự chí tình đối với bạn hữu” của giám mục Vu quả thật có thể nói là đã đạt đỉnh cao vậy!

MỞ RỘNG TÂM LÝ CHIẾN

Tâm lý chiến” nói ở đây, không phải là cuộc chiến tư tưởng với quân địch, mà là cuộc chiến tuyên truyền đề phòng người trong nước mang tâm lý chán ghét chiến đấu.

Ngày 14 tháng 11 năm 27, sau khi linh mục Lôi bay tới Trùng Khánh, nhìn thấy không khí kháng chiến tại Phụ Đô thập phần rệu rã, khiến ngài ấy kinh ngạc không thôi, nên ngài ấy đã tìm đến hỏi lý do của tình trạng ấy nơi các bạn hữu của ngài. Có người nói với ngài ấy: Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch đã phát biểu yết thị “Kháng chiến tới cùng” ở Vệ Dương, mặc dù tin tức ấy đã truyền tới nơi này, nhưng chỉ vì bản thân ngài ấy thì vẫn chưa đến đất này, còn  một bộ phận cán bộ chủ chốt của chính phủ lại tỏ ra không quá lạc quan đối với tiền đồ kháng chiến — đương thời linh mục Lôi không biết rằng Uông Tinh Vệ đang âm thầm tiến hành hòa đàm. Đây có thể là một trong những nguyên do lớn nhất dẫn đến sự rệu rã tại thành phố này.

Qua mấy ngày, vì tương quan đến phép lịch sự, linh mục Lôi đã đi thăm hỏi Phó Chủ tịch Uông Tinh Vệ. Linh mục Lôi vẫn luôn mang một con tim tràn đầy nhiệt huyết, báo cáo với ông ta sự anh dũng của những chiến sĩ kháng chiến ở tiền phương, cũng như cái nhìn lạc quan của bản thân đối với tiền đồ kháng chiến. Uông Tinh Vệ chung quy cũng là người thông minh, những kế hoạch nham hiểm chất chứa đầy bụng ông ta lúc đó, cũng không hề tỏ lộ trước một linh mục Lôi “Quang minh chính đại, tràn đầy sức sống”, ông ta chỉ theo câu chuyện chiếu lệ qua loa kể khổ  vài lời rồi thôi.

Sau khi linh mục Lôi ra khỏi phòng làm việc của họ Uông, liền lập tức đi gặp gỡ chủ nhiệm hành dinh, Trương Quần tiên sinh. Vị chủ nghiệm Trương này đối với kháng chiến luôn có niềm tin cực kỳ kiên định, và cũng rất tâm đầu ý hợp nói chuyện với linh mục Lôi; thật sự hai người họ giống như lửa gặp lửa, càng cháy càng rực. Linh mục Lôi hỏi: “Có thể ở Trùng Khánh ra sức tuyên truyền niềm tin “Kháng chiến đến cùng” và “Kháng chiến tất thắng” không?” Họ Trương đáp:“Đó chính là điều chúng tôi mong cầu còn không được!

Lời này đối với linh mục Lôi quả thật chẳng khác gì thêm dầu vào lửa, khiến ngọn lửa tâm tình kháng chiến của ngài ấy lập tức bốc lên. Vừa vặn thành viên đoàn chúng tôi cũng đã cập bến Trùng Khánh, linh mục Lôi lập tức hạ lệnh, tổ chức đội ca kịch, đội kịch đường phố. Song song với tập luyện, chúng tôi cũng đã thuê hai chiếc xe tải lớn, trang trí một chút, rồi di chuyển tới các ngã tư, tới các cửa phòng trà lớn ca hát, diễn thuyết, biểu diễn kịch nói,… Bản thân linh mục Lôi cũng giống như ở Vạn Châu, Nghi Xương, không mệt mỏi đến khắp nơi, như: Đài phát thanh, các trường học, thương hội cũng như các cơ quan đoàn thể khác,… diễn thuyết cho đại chúng, và nói chuyện với các tư nhân. Lần đặc sắc nhất là lần ở thương hội diễn thuyết cho hơn 3000 người nghe. Diễn từ sâu sắc và biểu cảm chấn động lòng người của ngài ấy đã giành lấy không ít sự tán thưởng của mọi người. Các tờ báo lớn đều giành vị trí đặc biệt để đăng tải tin tức cũng như những ngôn luận liên quan đến “Lão nhân kháng chiến Lôi Minh Viễn”. Một tòa báo lớn nọ còn đem lời diễn thuyết ở thương hội hôm đó viết thành một bài tóm tắt khoảng hơn 4 ngàn chữ đăng trên báo của họ.

Không đến vài ngày, thành phố rệu rã này đã trở thành phe cánh để cho tinh thần kháng chiến bay cao. Danh hiệu “Căn cứ địa kháng chiến” đương thời đối với nơi này cũng thật sự hoàn toàn xứng đáng vậy.

LẤY BẤT BIẾN ỨNG VẠN BIẾN

Từ khoảng tháng 9 đến tháng 12 năm 27, Linh mục Lôi từ Hán Khẩu, kinh qua Nghi Xương, Vạn Châu, Trùng Khánh, Thành Đô, Tây An, tới tiền tuyến núi Trung Điều. Tài hoa mà ngài ấy thể hiện dọc đường, đặc biệt là tài hoa diễn thuyết động lòng người của ngài ấy thực sự đã khiến con tim của ngàn vạn người rung động, khiến không ít người đã hồi phục niềm tin đối với tiền đồ kháng chiến. Ngoài ra, niềm vui và sự phấn chấn này còn được biểu hiện thông qua những hành động cụ thể: Đó là chỉ riêng vùng đất Thành Đô đã có hơn 200 thanh niên tham gia công việc của “Đoàn giám sát” chúng tôi, theo chúng tôi lên núi Trung Điều, là nơi mà “Trời đông tuyết phủ, mưa bom bão đạn”.

Tài hoa mà linh mục Lôi lan tỏa dĩ nhiên đều lưu lại cho người đời những ấn tượng xấu sắc, nhưng tu đức nội tại cả đoạn đường này của ngài ấy lại là thứ đã cảm động con tim của tôi. Lấy vô vàn cảnh ngộ mà ngài ấy dọc đường phải chịu mà nói, cũng đã dư dật biểu đạt cái tinh thần tu đức “Lấy bất biến ứng vạn biến” của ngài ấy.

Ngài ấy ở Hán Khẩu “được” nhà lãnh đạo Giáo Hội xem như là “Nhân vật nguy hiểm” và là mục tiêu oanh kích của máy bay Nhật, nên đã “được” mời ra khỏi thánh đường.  Nhưng làm sao những loại lạnh nhạt này có đánh bật đi nhuệ khí của ngài ấy được! trái lại, ngài ấy vẫn tràn đầy sức sống, thậm chí còn mạnh mẽ hơn trước lao vào hiện thực, phấn đấu tiến về phía trước.

Tới Nghi Xương, thật sự giống như từ hầm băng tiến vào ngôi nhà ấm áp, ngài ấy đã nhận sự chiêu đãi nhiệt liệt đầy bất ngờ của giám mục Cố. Giám mục Cố không chỉ đem ngài ấy trở thành thượng khách của tòa giám mục, mà còn trở thành bạn tri kỷ. Hai người ngồi nói chuyện tâm sự, vừa ngồi thì đã mấy giờ liền.

Tới Vạn Châu, so với ở Nghi Xương, sự tiếp đón và chiêu đãi của giám mục bản địa Vương Trạch Phổ cũng như hàng linh mục ở đây lại càng nhiệt liệt thân thiết hơn nữa. Giám mục Vương còn hi sinh hai vị linh mục và mấy vị tu sĩ, cho phép họ theo chúng tôi tới tiền phương làm việc. Tuy nhiên, loại đãi ngộ này cũng chẳng có khiến linh mục Lôi vênh mặt đắc ý, rơi vào buông lơi thả lỏng.

Trước khi chúng tôi đến Trùng Khánh, linh mục Lôi cũng có chút lo lắng nghĩ ngợi về chỗ ở, bởi vì ngài ấy không chỉ không quen biết vị giám mục ở Trùng Khánh, mà vị này còn là một người Pháp. Nhưng linh mục Lôi là người luôn mang quyết tâm “Lấy bất biến ứng vạn biến” để đối mặt với các loại cảnh ngộ. Ngài ấy kiên quyết duy trì nguyên tắc “Tu sĩ linh mục thì ở trong giáo đường”; nên sau khi đến nơi, thì trực tiếp đến giáo đường Trấn Nguyên xin lưu lại trọ. Vạn nhất chẳng có nghĩ tới vị giám mục Trùng Khánh đối với linh mục Lôi lại thân thiết và đồng cảm như vậy; ngài ấy không chỉ hoan nghênh linh mục Lôi đến trú ngụ, mà còn để tất cả thành viên đoàn chúng tôi lưu trú trong khuôn viên của giáo đường. Linh mục Lôi đối với sự chiêu đãi và hiệp trợ cách chân thành của vị giám mục và hàng ngũ linh mục ở Trùng khánh thì cảm kích vạn phần. Ngài ấy khi rời Trùng Khánh còn nói với giám mục Thượng: “Việc con có thể cảm tạ báo đáp giám mục chính là làm nhiều hơn nữa những việc tôn vinh Thiên Chúa và cứu rỗi con người”. Trong khi đó, giám mục Thượng dùng câu nói ngữ vựng vùng Tứ Xuyên chân thành đáp lời: “Linh mục Lôi, con quả thực là tốt!” người bên cạnh đều đồng loạt nở môi cười.

Linh mục Lôi bất luận ở vào hoàn cảnh nào, không thể nói tâm tình của ngài ấy không nổi lên những biến hóa, nhưng tôi dám nói, quyết tâm của ngài mãi mãi không lay động, luôn luôn phấn đấu chạy về phía mục tiêu mãi không ngừng nghỉ. Vì thế, nội tâm của ngài ấy luôn luôn ôm ấp vị Thiên Chúa mãi không biến động.

TỰ NHIÊN TRONG KHÓ XỬ

Từ Trùng Khánh tới Thành Đô, thu hoạch ngày càng lớn và càng nhiều; nhờ nguồn cảm hứng tinh thần của linh mục Lôi và sức mạnh hùng biện của ngài ấy, Thành Đô có hơn 200 thanh niên tri thức đã tham gia đoàn thể chúng tôi, theo chúng tôi lên tiền tuyến làm việc.

Giám mục Thành Đô Lạc Thư Nhã (Msgr. Rouchuse) cũng là một người Pháp, trước đây chưa từng thấy qua linh mục Lôi, nhưng có nhiều ấn tượng không tốt bởi những gì người ta đồn thổi về Lôi Minh Viễn. Đợi cho đến sau khi gặp mặt và trò chuyện đôi lời, thì vị giám mục này đã rất chân thành nói với linh mục Lôi: “Tôi đã nghĩ người hôm nay tôi gặp sẽ là một nhân vật “Tự cho mình là thánh nhân”, nhưng hiện tại người đang nói chuyện với tôi là một “Người Bỉ thuần túy” đầy hoạt bát! Chúng ta không nói đến vấn đề “Kháng Nhật”, nhưng ngài và chúng tu sĩ của ngài là khách quý của chúng tôi; nên mọi người đương nhiên có thể tự do tiến hành kế hoạch đến Thành Đô”.

Linh mục Lôi cúi đầu thật sâu trước giám mục, rồi vô cùng tự nhiên nói: “Cảm ơn giám mục!

Sau đó mấy ngày, một đêm khuya nọ có điện báo gọi tới, người gọi điện là giám mục Tây An Vạn Cửu Lâu (Msgr. Vanni): Xin linh mục Lôi khi tới Tây An, đừng trở thành lý do cho máy bay quân Nhật oanh kích các ngôi thánh đường. Giám mục Lạc sợ không kịp đợi chờ mà lập tức đi gọi linh mục Lôi và tôi, để chúng tôi xem bức điện báo này. Ngoài ra, ngài ấy còn nói đùa với linh mục Lôi: “Con xem, ta không bàn đến vấn đề kháng Nhật, là ta có lý do vậy! Giám mục Vạn cũng là như vậy thôi!

Linh mục Lôi mỉm cười, cười vô cùng tự nhiên: “Giám mục! Xin cha yên tâm! Con nhất định không phiền hà giám mục Vạn!”.

Trung tuần tháng 12, sau khi chúng tôi tới Tây An, đương nhiên là cũng không dám đến trú ngụ tại các thánh đường. Chính phủ thành phố sớm đã chuẩn bị cho chúng tôi một ngôi trường trung học để chúng tôi trú ngụ và tạm thời làm văn phòng làm việc, bởi vì, học sinh của ngôi trường này đã chuyển tới vùng nông thôn rồi.

Linh mục Lôi ở Tây An có rất nhiều bạn hữu thân thiết, trong số đó có thể kể đến tướng quân Chu Tử Kiểu, hội trưởng Hội Cứu tế Phật giáo. Thư kí chủ nhiệm Cung của thành phố cũng là học trò của linh mục Lôi. Bọn họ đều lần lượt mời linh mục Lôi đến trú ngụ tại tư gia của họ. Linh mục lôi nhất nhất bái tạ, nhưng vẫn kiên quyết trú ngụ ở trường học cùng với các thành viên của đoàn.

Linh mục Lôi không quên tác phong của những linh mục tu sĩ của giáo hội. sau khi tới Tây An, lập tức đích thân tới tòa giám mục thăm hỏi giám mục Vạn, và xin ngài ấy những phép tắc cần thiết. Giám mục Vạn trong sắc mặt vô cùng ngượng ngừng bối rồi, liên thanh trả lời: “Được! Được! Cho phép! Cho phép!”.

Qua mấy ngày, giám mục Vạn cảm thấy danh tiếng của linh mục Lôi đã khuấy động thành Tây An, nên đặc biệt mời linh mục Lôi và các thành viên cao cấp của đoàn thể đến tòa giám mục dự bữa cơm thân mật. Đây thực sự không phải là một bữa ăn vui vẻ. Nhưng điều khiến người ta kinh ngạc là dưới cục diện vô cùng khó chịu và lúng túng, linh mục Lôi vẫn cười nói vui vẻ vô cùng tự nhiên như chẳng có chuyện gì xảy ra vậy.

CÓ BẤT AN NHƯNG KHÔNG NGUY HIỂM

Cuối tháng 12 năm 27 Dân Quốc, Lễ Giáng Sinh vui vẻ vừa mới qua đi, năm mới tươi vui cũng bắt đầu gõ cửa, trong một đêm tối lạnh giá, sau một ngày vất vả với những công việc mệt nhọc từ sáng sớm, linh mục Lôi đã sớm đi vào mộng mị. Nhưng lúc bấy giờ, tôi vẫn đang ngồi xem lại sổ sách dưới ánh đèn nhỏ không ngừng dao động,…

Đột nhiên, một loạt tiếng súng: Bằng!…Bằng!…Bằng!…

Chuyện gì xảy ra vậy?” có người cất tiếng hỏi, nhưng lại chẳng có ai đáp lời.

Sau đó, cửa phòng của tôi bị đá bay, là “Vạn Nhất” nhảy bổ vào, trong tay cầm súng máy, hỏi dồn dập:  Lý ** (phó chủ nhiệm Lý) đâu? Linh mục Lôi đâu?……

Vạn Nhất là anh chàng họ Vạn tên Nhất, là một quái nhân giống như cái tên của anh ta vậy. Anh ta tự giới thiệu bản thân là một giáo dân, sống trong một gia đình có truyền thống Công Giáo lâu đời, và cũng là một trong những người đầu tiên tham gia “Đoàn giám sát” tại Hà Khẩu. Do cảm thấy bản thân là giáo dân kỳ cựu, nên trước mặt linh mục Lôi, anh ta luôn tỏ ra thân thiết cực kỳ, nhưng lại cử xử rất tệ với những thành viên khác, đặc biệt là đã nhiều lần phát sinh xung đột với Phó chủ nhiệm Lý. Khi tới Thành Đô, vì phát sinh một việc gì đó, linh mục Lôi đã mời anh ta rời khỏi đoàn. Sau khi anh ta rời đi, vì ôm hận trong lòng nên đã bí mật đến Tây An, câu kết với một số bạn học, trong đó có một số thành viên đội quân cảnh, hòng mưu đồ báo thù. Đó là nguyên nhân của những tiếng súng xảy ra trong đêm đó.

Lúc ấy, tôi không có lập tức trả lời câu hỏi của Vạn Nhất, nhưng hỏi ngược anh ta:

— Anh nổ súng để thị uy với ai đấy?

— Xin lỗi, không phải để đối phó anh.

— Là để đối phó linh mục Lôi sao?

— Cũng không phải! là đối phó Lý **.

— Phó chủ nhiệm Lý không có ở đây.

Chúng tôi đang nói đoạn, linh mục Lôi bị tiếng súng đánh thức, đi đến cửa phòng của tôi quan sát tìm hiểu. Vạn nhất nhìn thấy linh mục Lôi, liền muốn đem hết những uất ức trong bụng trút ra, yêu cầu linh mục Lôi ngồi xuống nói chuyện.

Linh mục Lôi kiên quyết, nếu không thu súng lại, thì chẳng có nói năng bàn bạc chi hết. Ngài ấy nói đoạn, rồi quay đầu đi về phía phòng của ngài. Vạn Nhất tay vẫn cầm súng đuổi theo, tôi và mấy vị tu sĩ bị đánh thức cũng theo đó đi vào phòng linh mục Lôi.

Khi ấy, Điền Ân Bái tiên sinh, một trong những học trò của linh mục Lôi đã dùng điện thoại gọi đến ba vị quân cảnh, kêu bọn họ đem Vạn Nhất đi, để duy trì sự an toàn cho mọi người. Chẳng ngờ, ba vị quân cảnh đều đã bị Vạn Nhất mua chuộc, không chỉ không gìn giữ trị an, trái lại còn cùng Vạn Nhất lớn tiếng la mắng linh mục Lôi xử lý bất công. ……

Linh mục Lôi chẳng những không giận dữ, mà còn im lặng không giải thích, chỉ xin quân cảnh duy trì trị an, để mọi người bình an ngủ nghỉ. Quân cảnh dường như không hiểu lời của linh mục Lôi, vẫn tiếp tục giúp Vạn Nhất kỳ kèo oán trách linh mục Lôi. Điền Ân Bái tiên sinh là người tính tình trực sảng, giữa đàng gặp chuyện bất bình không tha, nhìn thấy quân cảnh vô lễ như thế, lớn tiếng chỉnh đốn: “Nếu tất cả quân cảnh đều giống như các ngươi, Trung Quốc không vong, cũng không được mà!” Linh mục Lôi lập tức kiềm chế cơn phẫn nộ của Điền tiên sinh. May mắn là mấy tay quân cảnh cũng không có đáp trả Điền tiên sinh, nên sự việc cũng không diễn tiến theo chiều hướng tiêu cực.

Giằng co hơn một giờ, lúc này đồng hồ cũng đã điểm hơn 1h đêm rồi, Vạn Nhất và mấy tay quân cảnh địch không lại thái độ “Phản kháng vô ngôn” của linh mục Lôi, nên đã tìm một cái cớ để rời khỏi trường học. Thế rồi cả bọn cũng cúi đầu ủ rũ đi ra.

Buổi sáng hôm sau, chúng tôi vừa mới tham dự xong thánh lễ, vẫn còn chưa có ăn sáng. Bởi vì có người âm thầm đem chuyện đêm qua Vạn Nhất đến gây gổ thông báo cho Phó chủ nhiệm Lý, nên anh ta nộ khí đùng đùng hai tay hai súng từ quán trọ trở về Đoàn giám sát chúng tôi. Anh ta vừa đi vừa hét: “Vạn Nhất! Tên tiểu tử nhà ngươi, có giỏi thì ra đây đấu súng với ông!…” Tôi vừa nghe thấy tiếng hét hãi hùng ấy, vội vàng từ trong phòng chạy ra, ba chân bốn cẳng chạy đón đầu anh ta nói với anh ta, Vạn Nhất đêm qua đã đi rồi, không còn ở đây nữa, rồi kêu anh ta thu súng lại, đừng làm kinh động đến mọi người. Nói đoạn, tôi liền kéo  mạnh anh ta vào phòng tôi, để anh ta bình tĩnh trở lại.

Thật là có người “Sợ thiên hạ khắp nơi không đủ loạn”, nên đã gọi điện thoại kêu Vạn Nhất đến. Vạn Nhất giống như kẻ điên, tay cầm súng chạy như bay đến. Khi anh ta nhảy bổ qua cửa trường học, một vị tu sĩ đã nhìn thấy anh ta, rồi vô cùng điềm tĩnh và dũng cảm chào hỏi anh ta, và dẫn anh ta đi nơi khác; đồng thời phái người ngầm thông báo cho tôi, ngàn vạn không để hai kẻ oan gia này gặp nhau.

Tôi lập tức gọi Lý Quan Quân tiên sinh, là anh em song sinh với Phó chủ nhiệm Lý và cũng là thành viên của Đoàn giám sát đến, kêu anh ta lừa em trai mình theo cửa sau của trường học đi ăn sáng; còn tôi nhanh chóng chuyển qua đi ứng phó với Vạn Nhất. Hiểm cảnh “Ngàn cân treo sợi tóc” này may mắn là đã có thể vãn hồi rồi.

Lúc ấy, Điền Ân Bái tiên sinh cũng đã thức dậy, anh ta nghe nói Vạn Nhất lại vũ trang đến làm loạn, liền đôn thúc linh mục Lôi đi tìm đội trưởng quân cảnh, yêu cầu bắt nhốt Vạn Nhất lại. Nhưng linh mục Lôi vô cùng hiền hậu nói với Điền tiên sinh: “Anrê! Bình tĩnh chút nào!” Linh mục Lôi thường quen với việc gọi học trò của ngài bằng tên lúc Rửa Tội. Ngài ấy vỗ vỗ vai của Điền tiên sinh, tiếp tục nói: “Tôi không muốn dùng phương pháp không hợp với Phúc Âm để cư xử với bất cứ người nào”.

Sau đó, linh mục Lôi quay mặt nói với tôi: “Lập San! Cha giao “Việc của Vạn Nhất” cho con xử lý. Nhớ: “Phải lấy tinh thần “thật yêu người” khiến mọi người chúng ta bình an, và cũng để tâm tư của vạn nhất bình an”.

LẤY ĐỨC BÁO OÁN

Đêm khuya nổ súng thị uy không phải là một chuyện nhỏ, không chỉ Điền Ân Bái tiên sinh chủ trương nghiêm khắc trừng trị kẻ chủ mưu, mà một bộ phận viên chức cao cấp của bổn đoàn cũng cho rằng không nên dễ dàng bỏ qua cho anh ta. Nhưng linh mục Lôi với con mắt tinh đời lại có kiến giải khác. Ngài ấy chủ trương đối nhân xử thế đầu tiên phải chú ý tới tinh thần Phúc Âm, dưới tiền đề bảo vệ sự bình an cho đoàn thể, phải hết lòng rộng lượng với người, ngay cả đối với người gây ra rắc rối lần này.

Sau khi linh mục Lôi đặt ra nguyên tắc xử lý “Việc của Vạn Nhất”, liền đem gánh nặng trầm trọng này đặt lên vai tôi. Ngài ấy phân phó cho tôi trước tiên đi tìm Vạn Nhất trò chuyện, thăm dò một chút sự hồ đồ của anh ta, rồi suy nghĩ phương pháp giải quyết.

Tôi đem tâm tình “Thăm dò” đi tìm Vạn Nhất, trò chuyện với anh ta để kết thúc sự kiện bất hạnh này. Tôi đầu tiên nói với anh ta: Lý Trung Tam đã rời khỏi Tây An, anh trai song sinh của anh ta đã dắt anh ta tới Hoa Âm tạm thời tránh mưa gió, anh đã không còn đối tượng phát tiết rồi. Bây giờ linh mục Lôi sai tôi đến trò chuyện với anh làm thế nào giải quyết triệt để việc này.

Chúng tôi trước sau đã nói chuyện bốn lần, cuối cùng đã thu được kết luận. Ở đây không tiện đem cái kết luận dài dai dở đã kinh qua viết lại, chỉ nguyện đem điểm chính quy nạp trong đoạn hội thoại bên dưới, làm thành lời giải thích. Có lẽ nhờ đã quen với tác phong “Lấy đức báo oán’ của linh mục Lôi, tôi trước tiên ướm hỏi cách giải quyết của Vạn Nhất, nhưng anh ta lại hỏi ngược lại tôi:

— Linh mục Lôi hy vọng điều gì?

— Ngài ấy chỉ muốn bình an, hy vọng anh đề ra biện pháp cụ thể đảm bảo “Bình an cho mọi người”.

— Muốn tôi đề ra bảo chứng gì đây?

— Lập tức rời khỏi Tây An, trở về quê hương Tứ Xuyên đi.

— Linh mục Lôi cho tôi cái gì?

— Anh muốn cái gì?

— Hồi phục thân phận thành viên đoàn thể cho tôi, cho tôi một tờ giấy chứng minh chức vị, để tôi dễ dàng tìm một công việc khác sinh sống.

— Được á! Thì như vậy đi. Đêm ngày mai chứng thư sẽ được đem lại cho anh.

Hai vị linh mục từ giáo phận Vạn Châu tham gia bổn đoàn, bởi vì không thể thích ứng với cái lạnh phương bắc, nên đã ngã bệnh nhiều ngày, nên đã biểu thị “Ý muốn rút lui” với linh mục Lôi. Sau khi Linh mục Lôi triệu tập cuộc họp các cán bộ cao cấp, quyết định thành lập một “Phòng làm việc của Đoàn giám sát ở Thành Đô” . Hai vị linh mục này trở thành chính và phó chủ nhiệm ở văn phòng đó; còn Vạn Nhất làm thư ký. Nhưng, sau khi bọn họ trở lại Tứ Xuyên, hai vị linh mục đã trở lại giáo phận nguyên quán truyền giáo, còn Vạn Nhất lại tự tìm việc kiếm sống. Chính là như thế mà “Sự kiện Vạn Nhất” khó nhằn như thế mới thuận lợi giải quyết.

ĐỪNG BUỒN KHI KHÔNG CÓ TIỀN

Linh mục Lôi lúc sinh thời không chỉ cá nhân sinh hoạt đạm bạc, mà ngài còn muốn chúng đệ tử của ngài, tức các tu sĩ của hai hội dòng Gioan Tẩy Giả và Têrêsa, cũng phải sống một đời sống cực kỳ nghèo khó. Không chỉ như thế, ngài ấy còn không trù bị cả ngân khoản sinh hoạt cho cả hai hội dòng, nên các nam nữ tu sĩ của ngài ấy đã thường trực sống trong cảnh “Giật gấu bá vai”, “Thu không đủ chi”, “Năm Dần ăn lương năm Mão”. Mỗi lần những nam nữ tu sĩ quản gia[2] kể khổ “Chưa có tiền”, ngài ấy luôn nói: “Đừng buồn khi không có tiền, nên buồn khi không làm việc; có công việc rồi, tự nhiên ắt sẽ có tiền thôi”.

Tôi mặc dù không dám noi gương loại tinh thần mạo hiểm này của ngài; nói đúng hơn là tôi chưa có đức tin thâm sâu như ngài ấy, nhưng tôi đã chính mắt nhìn thấy loại triết học nhân sinh này thực sự đã hiện diện trên người linh mục Lôi.

Khi ở Trùng Khánh, tôi đã theo linh mục Lôi đi thăm hỏi ông Khổng Tường Hy, người lúc ấy đang kiêm nhiệm vai trò Hội trưởng Hội cứu tế. Khi linh mục Lôi báo cáo những gian khổ dị thường trong đời sống của các nạn dân nơi chiến địa, ông ta lập tức trích cho linh mục Lôi 4 vạn đồng, quyên góp để cứu tế nạn dân. Sau này, vì quy mô công việc cứu tế mà chúng tôi làm ở chiến địa tương đối rộng lớn (thu nhận hơn 3000 nạn dân), ông ấy lại tiếp tục gửi đến cho chúng tôi hơn 20 vạn đồng. Việc ấy khiến tôi sâu sắc cảm nhận “Có công việc ắt có tiền” mà linh mục Lôi đã nói, dường như là điều rất tự nhiên vậy!

Tướng quân Chu Tử Kiều, hội trưởng hội cứu tế Phật giáo, khi cuộc chiến kháng Nhật nổ ra ở Hỉ Phong Khẩu – Trường Thành năm 22 Dân quốc, ông ta ở Bắc Bình đã quyên góp cho đội cứu thương của linh mục Lôi không ít vật tư. Lúc này, không lâu sau khi chúng tôi tới Tây An, ông ta cũng đã đến thăm hỏi linh mục Lôi, và mời chúng tôi đến Tự Viện dùng cơm chay. Trong bữa ăn, Chu tướng quân đã thỉnh cầu linh mục Lôi giúp đỡ. Giúp đỡ cái gì vậy? Đó là xin linh mục Lôi tiếp nhận một tờ chi phiếu lớn, mang ra chiến địa để cứu tế nạn dân. Tôi nghe xong, trong tâm đã âm thầm nổi sóng: đây thật là một sự cứu trợ kỳ quái mà!

Chu tướng quân còn nói: Hội cứu tế Phật giáo quyên góp rất nhiều; tuy nhiên, công việc cứu tế ở hậu phương rất ít, mà nạn dân ở tiền tuyến đợi cứu trợ lại rất đông, nhưng chúng tôi cũng chẳng có người đi tiền tuyến làm việc, nên phiền linh mục Lôi đem giúp ngân khoản này đi xử lý công việc cứu tế ở đó.

Trở lại trường học, nơi đoàn giám sát trú ngụ, tôi không thể cầm lòng thổ lộ cảm xúc của tôi đối với việc này cho linh mục Lôi: “Cha à! ‘Đừng buồn vì không có tiền’ mà cha thường nói, hôm nay lại một lần nữa được chứng thực rồi!”. Nhưng linh mục Lôi lại mở não cho tôi, nói: “Chúng ta đừng thay đổi lối sống; nếu lối sống của chúng ta sung túc rồi, người ta sẽ không gửi tiền đến nữa đâu!”

CHỤI ĐƯỢC KHỔ MỚI LÀ HẢO HÁN

Đời người tám chín phần là việc không như ý” là kinh nghiệm mà cổ nhân truyền lại, cũng là thực tế mà bất cứ ai cũng không thể phủ nhận.

Linh mục Lôi cả đời đã làm không ít những đại sự oanh oanh liệt liệt. Nhưng khả năng có người sẽ cho rằng ngài ấy ơn cả nghĩa dày được Trời phù độ, nên làm việc gì cũng đều thuận buồm xuôi gió, muốn sao được vậy; việc muốn làm thì dễ dàng thành công như lấy đồ trong túi vậy.

Theo như quan sát và kinh nghiệm trong suốt mười năm sống cùng ngài ấy của tôi, thì mỗi lần ngài ấy làm việc gì, thì những khó khăn và những trắc trở gặp phải không chỉ giống với người thường, mà còn lớn rộng và nhiều hơn gấp bội. Thật có thể nói là khắc khắc đều có khó khăn, nơi nơi đều đụng gai góc. Có thể lấy tiến trình ba tháng đầu tiên thành lập “Đoàn giám sát” mà nói, cay đắng khổ đau mà ngài ấy phải nếm trải nhiều không kể xiết, ngay cả người bàng quang như tôi đây cũng phải lo lắng mướt mồ hôi cho ngài ấy. “Sự kiện của Vạn Nhất” mà trước đây không lâu tôi đã kể ra cũng chỉ là một trong ngàn vạn khổ não mà ngài ấy phải chịu mà thôi.

Hay lấy vấn đề nhân sự của đoàn giám sát mà nói, sau khi Vạn Nhất và hai vị linh mục gốc Tứ Xuyên rời khỏi bổn đoàn, không lâu sau đó, lại có mười mấy vị cán bộ tiếp tục rời đi. Ngay cả phó chủ nhiệm Lý Trung Tam, người cùng với linh mục Lôi thành lập đoàn giám sát, cũng mỗi người một ngả, rời đi theo đuổi con đường của mỗi cá nhân. Thậm chí như việc ở Thành Đô gọi đến được hơn 200 học sinh, khi họ còn chưa tới núi Trung Điều sương trắng tuyết lạnh, thì đã có đến 2 phần 3 không chịu nổi sức thổi của làn gió mát mẻ Tây An, nên cũng lần lượt rời khỏi đoàn. 

Đoàn thể này kỳ thực giống như quả cầu tuyết đang lăn vậy, khởi đi từ hơn 40 người ở Hán Khẩu, lăn qua Nghi Xương, Vạn Châu, Trùng Khánh, Thành Đô, càng lăn càng lớn; và khi lăn tới Tây An thì đã hình thành nên một đoàn thể lớn gần 300 người, mà mỗi người đều phừng phừng sinh khí, ý chí kháng chiến ngút trời, vang động cả một vùng Tứ Xuyên, vùng đất căn cứ kháng chiến. Nhưng chẳng lâu sau, lạnh tan tuyết chảy, mắt nhìn thấy nó gần như tiêu tùng rồi. Qua rồi thời băng giá, cầu tan người tản,Nó bây giờ giống như hùng kê gãy cánh, cúi đầu ủ rũ trước thành không núi khó. N

Ngày nọ, mấy người tu sĩ chúng tôi với linh mục Lôi ngồi nói đến khốn cảnh trước mắt. Mấy vị tu sĩ chúng tôi phần lớn đều than ngắn thở dài, ôm một nỗi lắng lo thâm sâu cho cái đoàn thể “Bẩm sinh yếu đuối, lại thiếu nền tảng” này. Linh mục Lôi nhìn thấy biểu tình như thế, lại cũng nghe không ít lời phàn nàn của chúng tôi, thì rất lấy làm không vui, nghiêm nghị giáo huấn chúng tôi: “Nhân sinh ngoài khốn khó còn có cái gì đây! người chịu khổ được mới là hảo hán đấy!” Sau đó, ngài ấy liền giảng cho chúng tôi một trận đạo lý. Ngài ấy giảng giải đạo lý rất thâm sâu, lấy ví dụ cực sinh động, và dẫn dắt kinh điển cũng vô cùng thích đáng, dĩ nhiên là đều khiến chúng tôi cảm động không thôi; Nhưng cái tinh thần “Kiên cường sắt đá” và cái nhuệ khí “Chăm chỉ không sợ làm việc” toát ra khi ngài ấy giảng giải lại là thứ có sức thuyết phục hơn nữa.

Nói thật, tôi ở vào trong cái chướng khí mù mịt lúc ấy cũng đã cảm thấy nhụt chí rất sâu. Nhưng  kinh qua sự khởi phát trong “Bữa tiệc lời” này của linh mục Lôi, tôi giống như kẻ được người khác xé toạc màn đêm cho nhìn thấy ánh sáng; những sự việc “Mò kim đáy bể, tìm đường sống trong tuyệt cảnh” mà linh mục Lôi đã làm trước đây một lần nữa như sống lại mồn một trong đầu tôi. Thế là niềm hy vọng lại sáng bừng trong tôi, khiến cho tinh thần của tôi khi ấy cũng phấn chấn và vui vẻ lạ thường, máu sục sôi hận không thể nỗ lực làm việc nhiều hơn nữa, ra sức thi thố nhiều hơn nữa, để danh chúa được vinh hiển, để đồng bào được ấm no hạnh phúc.

ĐẶT NỀN MÓNG CÔNG VIỆC

Theo như hiểu biết của tôi, thành tựu công việc cả đời của linh mục Lôi không hoàn toàn do hoàn cảnh có lợi hay do những điều kiện ưu đãi khác kết thành, mà đa phần là do ý chí kiên cường và tinh thần phấn đấu của ngài mấy làm mà ra như thế. Napoleon trước đây từng nói: “Trong từ điển của ông ta không có chữ “khó”, linh mục Lôi không nói như vậy; Ngài ấy thừa nhận, phàm việc gì cũng đều có khó khăn, nhưng cũng không thừa nhận khó khăn là cái cớ để đùn đẩy trách nhiệm”.

Có lần, ngài ấy kêu một vị tu sĩ kia đi làm một việc không dễ dàng, vị tu sĩ đó chối từ, nói: “Việc này quá khó rồi!”. Linh mục Lôi lập tức nửa đùa nửa thật nói: “Không khó thì đâu có cần con đi đâu!”. Yêu cầu của ngài ấy với môn sinh là như vậy, và đối đãi với bản thân còn nghiêm khắc hơn nữa. Khi linh mục Lôi nhìn thấy đoàn giám sát mới thành lập gần như sắp giải thể, ngài ấy không oán trời cũng chẳng trách người, không lo lắng cũng chẳng bi quan, mà lại vùi đầu chăm chỉ làm việc, tìm biện pháp ở trong khó khăn. Đương nhiên là ngài ấy cũng cùng những người  đồng chí hướng nghiên cứu đối lược. Ngài ấy rất nhanh đã có thể đột phá cửa ải khó khăn, thiết lập nền tảng công việc cho Đoàn giám sát.

Như đã biết, linh mục Lôi là “Người của Thiên Chúa”, ngài ấy trước tiên muốn đem công việc kháng chiến đặt vào tay Thiên Chúa, nên rất nhanh chóng đã mời đến bạn hữu của ngài là linh mục Đinh Lộc Minh (tu sĩ dòng Biển Đức) kiêm nhiệm chức đội trưởng đội cứu thương và linh mục tuyên úy của sư đoàn 12; ngài ấy cũng mời linh mục người Sơn Đông, Dương Học Triết đảm nhiệm chức vụ Linh mục Tuyên úy của Đoàn giám sát; giám mục Thành Ngọc Đường, Giáo phận Hồng Động cũng nén đau thương đem linh mục Lý Chí Nhân nhường cho linh mục Lôi, để ngài ấy thay linh mục Lôi kiêm nhiệm chức vụ linh hướng và đội trưởng của những nhân viên công tác vùng hậu địch.

Tiếp đó, linh mục Lôi muốn kiện toàn tổ chức, xây dựng những cán bộ nòng cốt. Ngài ấy bây giờ thật sự muốn “Dốc toàn lực cứu đời” rồi: ngài ấy điều động toàn bộ những tu sĩ trẻ đang đi học cũng như tất cả tập sinh từ Thiểm Tây đến tiền tuyến — tiền phương lúc ấy tổng cộng có hơn 70 tu sĩ bổn hội và 5 vị nữ tu dòng Têrêsa. Các nữ tu làm việc trong các bệnh viện dã chiến. Không lâu sau, một phần ba trong số đó, 17 vị nam tu và 2 vị nữ tu đều hi sinh tráng liệt cho tổ quốc.

Thứ đến, linh mục Lôi lại mời ông bạn xưa, linh mục Lý Quắc (linh mục quản xứ tại Tế Thủy, Hà Nam) chiêu mộ và huấn luyện giáo dân thanh niên cho Đoàn giám sát. Chỉ trong ba tháng, ngài ấy đã huấn luyện hơn 200 người đến tiền phương làm việc. Chính là như vậy, không tới nửa năm, không chỉ bản thân Đoàn giám sát đã có nền tảng kiên cố, mà công việc cũng được mở rộng với quy mô lớn hơn rất nhiều.

HOÀN THÀNH TỔ CHỨC ĐOÀN THỂ

Linh mục Lôi là người của Thiên Chúa, đời sống cá nhân, công việc, chức vụ, cư xử giao tiếp,… tất cả của ngài ấy đều lấy Thiên Chúa làm trung tâm, đều lấy Thiên Chúa làm chỗ dựa, và lấy tinh thần tại thế của Chúa Giêsu làm gốc rễ. Nhưng ngài ấy cũng là con người, ngài ấy cũng phải nỗ lực hết mình, phải dựa vào bạn hữu, phải dùng đến những người trợ giúp,… Tóm lại, ngài ấy cần một đoàn thể không chỉ kiện toàn tổ chức mà còn phải linh hoạt, mới có thể khiến công việc kháng chiến chống Nhật phát huy hiệu suất cực đại, mà sản sinh ra những kết quả phong phú hơn.

Trước đây đã nói đến, Đoàn giám sát từ khi thành lập ở Hán Khẩu, kinh qua Nghi Xương, Vạn Châu, Trùng Khánh, Thành Đô, dọc đường đã thu nhận gần 300 người. Nhưng chỉ vì trên đường đi không có thời gian để làm những kế hoạch chặt chẽ tươm tất, trước sau chưa hề được tổ chức qua; cũng lại vì “Mâu thuẫn nhân sự” và các loại áp lực khác, nên khi tới Tây An, đoàn thể “Bẩm sinh yếu đuối, lớn lên loạn điệu” này đã gần như nằm trên bờ vực giải thể. May nhờ ý chí cứng hơn sắt đá của linh mục Lôi và những sách lược của những cán bộ tâm huyết, không chỉ đã chuyển nguy thành an; mà còn rất nhanh chóng đã tổ chức thành một đoàn thể vừa mạnh mẽ vừa linh hoạt.

Đội giám sát thiết lập những người đứng đầu tổ chức, và linh mục Lôi đảm nhiệm chức vụ chủ nhiệm. Bộ chỉ huy đoàn thể cũng thiết định 4 cơ quan đầu não, bao gồm:

  1. Ban thư ký: phụ trách văn tịch, thư tín.
  2. Ban tổng vụ: phụ trách điều động nhân lực, quản lý các việc vặt cũng như kinh phí của toàn đoàn.
  3. Ban chính huấn: phụ trách các công việc lên kế hoạch và đẩy mạnh tổ chức và huấn luyện dân chúng, đồng thời tuyên truyền tinh thần kháng chiến, nâng cao mặt bằng văn hóa của dân chúng,…
  4. Ban nghiệp vụ: xử lý các công việc cứu tế nạn dân, cứu trợ quân dân thương binh,…

Ngoài ra, Đoàn giám sát còn thiết lập 6 đội công tác và đội tuyên truyền. Mỗi đội do 30 đến 50 người hợp thành. Họ sẽ đến khắp nơi thi hành các loại công tác. Ngoài đội tuyên truyền là hành động tập thể, còn các đội công tác khác chia ra thành nhóm nhỏ, bổ ra khắp nơi trong vùng công tác, bố trí các “Cơ quan giám sát”, mỗi ban bố trí từ 3 đến 5 người. Nếu công việc cần nhiều nhân lực hơn, như: tòa báo, bệnh viện, các xưởng của nạn dân,… ắt sẽ bố trí bộ chỉ huy đoàn ở đó.

HOA TRÁI ĐẦU MÙA

Người hiệp trợ linh mục Lôi hoàn thành tổ chức Đoàn giám sát rất nhiều, nhưng người xứng đáng “Được nhắc đến nhiều nhất” thì chỉ có một vị, chính là vị giáo dân Đài Bắc, là Đại biểu Quốc hội, Tổng thư ký Hiệp hội Văn học Công giáo, ông Quách Hồng Quân (mất ngày 23 tháng 10 năm 1989).

Quách tiên sinh là một trong những người đầu tiên tham gia Đoàn giám sát. Ngài ấy từ lâu vốn đã ngưỡng mộ tinh thần ái quốc của linh mục Lôi, những chỉ là chưa có cơ hội gặp mặt, cũng như chưa thể hợp tác xa hơn nữa với linh mục Lôi mà thôi. Tháng 10 năm 27 dân quốc tại Hán Khẩu, khi gặp gỡ linh mục Lôi, ngài ấy đã trách trời “Hận vì đã không gặp sớm hơn”, đồng thời lập tức từ bỏ công việc với mức đãi ngộ đầy ưu đãi, mà theo linh mục Lôi đến núi Trung Điều chịu khổ.

Vị bạn hữu này của linh mục Lôi không chỉ học vấn uyên thâm, năng lực công việc mạnh, mà đạo đức tu dưỡng cũng rất thâm sâu. Đương thời ngài ấy mặc dù vẫn chưa rửa tội gia nhập Giáo hội, nhưng linh mục Lôi rất coi trọng ngài ấy, chẳng thua kém gì bất cứ vị tu sĩ nào của bổn hội. Ngài ấy một mực tích cực trù tính tất cả các kế sách cho linh mục Lôi, hiệp trợ linh mục Lôi hoàn thành tổ chức cho Đoàn giám sát, để công tác kháng chiến chống Nhật được triển khai nhanh chóng nhất có thể.

Linh mục Lôi lúc đầu mời Quách tiên sinh đảm nhận chức vị tổng thư ký của đoàn giám sát. Sau này, khi phó chủ nhiệm Lý Trung Tam rời bỏ linh mục Lôi để theo đuổi con đường lý tưởng cá nhân, linh mục Lôi tạm thời không cắt đặt phó chủ nhiệm, nhưng khi rời đoàn, liền mời Quách tiên sinh làm “Đại diện chủ nhiệm” thay ngài ấy xử lý mọi việc quan trọng.

Sau khi nền tảng của Đoàn giám sát được tổ chức và thiết lập hoàn thiện, các loại công tác cũng theo sự sắp xếp của chỉ huy liên tiếp được mở rộng, không khí của sở chỉ huy Đoàn cũng không còn ngột ngạt như trước. Quách tiên sinh bèn tự động nghiên cứu Giáo lý Công giáo, và tìm thời gian rảnh xin linh mục Lôi giảng giải và chỉ dẫn. Ngài ấy một mặt nghiên cứu giáo lý, một mặt cũng học tập giáo quy, cũng như tham dự các Thánh lễ Chúa nhật, có khi còn tham gia kinh chiều cùng với đoàn thể tu sĩ chúng tôi. Chẳng bao lâu sau, ngài ấy đã điềm nhiên trở thành một Kitô hữu thuần thục. Dưới sự khẩn cầu và mong ước nồng nhiệt của ngài ấy, linh mục Lôi đã cử hành Nghi thức Rửa tội cho ngài ấy gia nhập Giáo hội. Đây là “Quả ngọt đầu tiên” dâng lên Đức Kitô, kể từ khi thành lập Đoàn giám sát.

Quách tiên sinh đương thời là thành viên cao cấp chỉ đứng dưới linh mục Lôi. Sau khi ngài ấy gia nhập Giáo hội, lập tức đã phát sinh những ảnh hưởng “Phong hành thảo yển” (cúi mình theo người đức vọng), không ít thành viên không phải tín hữu Công giáo cũng lần lượt nghiên cứu Giáo lý Công giáo, tựa như một trận triều cường “Vận động trở về với Thiên Chúa” có sức mạnh “Dời non lấp biển” đang càn quét mạnh mẽ qua Đoàn giám sát.

Đối mặt với hiện tượng đáng vui mừng trước mắt, tất cả giáo hữu lâu năm, đặc biệt là chúng tu sĩ chúng tôi, dấu không nổi niềm vui sướng tột độ, nên sự nhiệt tình với công việc cũng theo phòng trào rầm rộ ấy dâng cao ngút trời. Không khí chán trường ủ rũ ở Tây An mấy tháng trước, đều tựa như không cánh mà bay sạch sẽ vậy!

Linh mục Lôi thì sao? Ngài ấy nhìn thấy tình hình như vậy, đương nhiên cũng vui mừng, nhưng sự vui mừng ấy là thâm tàng bất lộ, thật không giống những người “Tầm mắt hạn hẹp, thiếu hụt tu dưỡng” chúng tôi không ngừng bị ngoại cảnh ảnh hưởng, lúc thì sầu não buồn chán, lúc thì hớn hở hả hê.

Linh mục Lôi lại lên cho chúng tôi “Một lớp tu đức” vậy!

CHA CỦA SƯ ĐOÀN 12

Giữa tháng 3 năm 28 Dân quốc, linh mục Lôi dẫn dắt toàn bộ thành viên Đoàn giám sát mới thành lập, xuất phát từ Tây An, qua sông Hoàng Hà, đi vào khu vực núi Trung Điều, Sơn Tây. Để điều chỉnh và bố trí cách tổng thể nhân lực với đội cứu thương và bệnh viện dã chiến đã hiện diện từ trước, Đoàn giám sát chúng tôi tạm thời trú ngụ tại thôn “Đại Tự Bình” (thuộc trấn Văn Hỉ, Sơn Tây) cách Bộ chỉ huy Sư đoàn 12 hơn 10 km.

Sau khi linh mục Lôi ổn định chỗ ở, việc đầu tiên là đi thăm hỏi Sư trưởng Sư đoàn 12, tướng quân Đường Hoài Nguyên, một mặt báo cáo cho ngài ấy biết về Đoàn giám sát mới thành lập, mặt khác cũng lần nữa sắp xếp lại công việc chữa trị và cứu hộ của sư đoàn sau này, và đặc biệt cũng giới thiệu cho ngài ấy 2 người, đó là linh mục Đinh Lộc Minh, đội trưởng mới của đội cứu thương và tiến sĩ Tiêu Tế, Viện trưởng Bệnh Viện Dã Chiến.

Sư trưởng Đường và linh mục Lôi lâu ngày gặp lại thì vui như thế nào ắt hẳn không cần phải nói. Bên cạnh đó, toàn thể quân nhân sư đoàn 12, vì cảm động và ghi nhớ những cống hiến tuyệt vời của linh mục Lôi cho Sư đoàn này trong hơn một năm qua, nên họ muốn tặng cho ngài một vật phẩm kỷ niệm. Sư trưởng Đường nói với linh mục Lôi: “Toàn thể quân nhân Sư đoàn gom góp đã làm một kỷ niệm chương bằng vàng tặng cho ngài, đồng thời, ‘Huân Chương Hạng 2 Lục Hải Không Giáp Và Bằng Khen’ mà ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch trao tặng ngài cũng đã được chuyển tới. Chúng tôi định ngày 20 tháng 3, kỷ niệm ngày Quốc Phụ qua đời, tiến hành lễ nghi chính thức ‘Phát thưởng’ và ‘Tặng vật phẩm kỷ niệm’”. Linh mục Lôi nghe xong, liền không nguyện làm khó mọi người, cầu xin Sư trưởng đem “Tặng phẩm” trao cho ngài ấy là được rồi, không cần phải cử hành lễ nghi. Nhưng Sư trưởng Đường nói: “Lễ nghi này không phải là cho ngài, nhưng là cho toàn thể quốc gia, và coi đó như là cơ hội để khích lệ tinh thần yêu nước và nhiệt liệt kháng chiến cho toàn thể quan binh sư đoàn cũng như mọi người dân cả nước”. Linh mục Lôi mặc dù luôn tôn sùng khiêm nhượng, nhưng nghe xong những lời này, thì cũng không khỏi miễn cưỡng đồng ý.  

Tới ngày giờ đã định, không chỉ ông trời tác thành cho trời quang mây tạnh, mà ngay cả quân địch cũng rất biết vui, chẳng có mở rộng hành động quấy phá. Vì thế, “Buổi lễ lãnh thưởng” diễn ra vô cùng thuận lợi. 10h trưa hôm đó, quan quân bộ chỉ huy sư đoàn 12, các liên đại biểu quân doanh, thành viên của 3 đoàn thể mà linh mục Lôi dẫn dắt, ước khoảng hơn 1500 người tụ họp ở quảng trưởng bên ngoài thôn Tào Gia Trang, chẳng có đội cổ vũ cũng chẳng có đèn màu, trong không khí “Đơn giản mà long trọng; trang nghiêm mà động lòng người”, đã hoàn thành lễ nghi “ban thưởng” và “trao tặng vật phầm kỷ niệm”.

Tiết mục quan trọng nhất trong nghi thức là bài diễn văn của sư trưởng Đường. Sư trưởng Đường rất ít khi diễn thuyết long trọng trước mặt quan binh. Đây là lần thứ hai kể từ khi tòng quân chúng tôi được nghe. Ngài ấy không nói về bản thân, vừa mở miệng là một bụng chữ thánh hiền như nước chảy mây trôi tuôn tràn, đã biểu thị cách đầy đủ độ sâu rộng trong sự học tập cũng như tu dưỡng của ngài ấy.

Sư trưởng Đường thuận theo chính phủ “Phát thưởng” cho linh mục Lôi, và tặng “Lễ phẩm của sư đoàn” cho ngài ấy. Rồi sau đó, lại nói tới những cống hiến của linh mục Lôi cho toàn thể quốc gia và sư đoàn trong hơn 1 năm qua. Rồi kết thúc với việc: Linh mục Lôi với thân phận của người Trung Quốc “Nhập tịch” mà lại có hành động và tinh thần yêu nước đối với tổ quốc thứ hai được biểu lộ tráng lệ vĩ đại như thế, thật khiến những người Trung Quốc “Chân chính” như chúng tôi cảm thấy hổ thẹn. Ngài ấy càng nói càng hấp dẫn, càng diễn giảng càng có lực; ngài ấy không chỉ ăn nói tốt, phong độ; mà còn dùng từ cũng rất thích đáng, lập luận cũng rất tinh thâm, và cũng lại càng tràn đầy nhiệt tình. Vì thế, bài diễn thuyết của ngài ấy nhận được không ít lời vỗ tay tán thưởng.

Ở đây lại kể xuống một đoạn tất cả những ấn tượng của ngài ấy tối với linh mục Lôi. Ngài ấy nói: “Trước đây hơn một năm, tôi lần đầu nhìn thấy linh mục Lôi: ‘đầu trọc, chân đất, quần sờn áo bạc, dáng người nhỏ thó, đen lùn’— hãy nhìn xem! Ngài ấy hiện nay vẫn là dáng người như vậy, giống như một người ăn xin cao cấp vậy, chỉ là chẳng có ngửa tay xin tiền mà thôi, trong lòng tôi cảm thấy rất buồn cười. Đương thời thành kiến của tôi “Công giáo không yêu nước” rất là sâu, nếu không có thư giới thiệu của Đoàn trưởng Dương, thì tôi đã không gặp gỡ ngài ấy….”

Hiện tại”, sư trưởng Đường dừng lại một chút, gạt đi dòng nước mắt, dùng ngôn từ xúc động và rõ ràng nói: “Ngài ấy là người cha đáng kính của toàn thể quan binh Sư đoàn 12 chúng ta vậy!

Tôi nghĩ” sư trưởng tiếp tục nói: “Đây không phải là cái nhìn của riêng cá nhân tôi, mà là phản ánh ý kiến của mọi người vậy. Anh em nói có đúng không?

Mọi người đồng loạt hét lên: “Đúng!

Nghi thức ban thưởng đã kết thúc trong rưng rưng cảm kích, không! Đã kết thúc trong niềm vui sục sôi.

TẬN HƯỞNG NIỀM VUI TRONG CÔNG VIỆC

Linh mục Lôi thường nói: “Nhân sinh có ba đại bảo: ánh sáng, không khí và nước. Chẳng phí một xu tiền cũng có thể thoải mái hưởng dụng”.

Dưới đây chỉ tường thuật mấy đoạn hồi ức về “Việc tận tụng tối đa nguồn nước” của ngài ấy.

Tắm rửa mỗi ngày là thói quen mà bình sinh linh mục Lôi không bao giờ xem nhẹ. Ngay cả khi phiêu bạt trên chiến địa vào mùa đông lạnh lẽo, mặc dù không có dụng cụ tắm rửa, ngài ấy vẫn có biện pháp phá bỏ những khó khăn.

Giữa tháng 3 năm 28, khi linh mục Lôi phục vụ ở núi Trung Điều, sáng sớm mỗi ngày luôn đến bên suối tắm nước lạnh. Ngày kia, không khí lạnh tràn qua, nước suối đóng băng. Ngài ấy liền nảy sinh ý tưởng mới lạ, đập một lỗ lớn trên băng, rồi nhảy xuống dưới tắm như thường lệ. Có lần “được” người ta nhìn thấy, ngài ấy liền nói cách hài hước: “Anh em không hiểu đâu! Tắm như này, ấm ở dưới băng, nhưng vui ở chỗ khác”.

LÀM VIỆC CHÍNH LÀ HƯỞNG THỤ

Khi bắt đầu tổ chức đội cứu thương, linh mục Lôi không chỉ biểu thị với phía quân đội: “Chúng tôi không làm quan, không cần cấp bậc, không cần tiền, không cần…… chỉ cần công việc”, mà còn hướng về phía những giáo hữu tham gia đội cứu thương, nói như đinh đóng cột: “Ai hy vọng thăng quan phát tài đừng đi theo tôi”.

Trong công việc cứu thương hơn một năm dài ở sư đoàn 12, ngài ấy luôn luôn dy trì nguyên tắc này, ngài ấy không chỉ không cho phép tu sĩ chúng tôi có “Ý đồ tích trữ tài sản”, mà ngay cả giáo dân cũng không được phép hoang tưởng “Có thể làm giàu trong quốc nạn”. Nếu có người không thể hoặc không nguyện ý ghi tạc chủ trương “Không làm quan, không kiếm tiền” của ngài ấy, ngài ấy liền theo nguyên tắc “Hi sinh người, không hi sinh tinh thần” để họ tự do rời đi, mưu thành đại sự ở một nơi khác.

Đối với linh mục Lôi, từ khi mở rộng công việc kháng chiến, và thành lập Đoàn giám sát mà nói, loại tinh thần làm việc “Công quên tư” của ngài ấy, không chỉ chẳng phải chịu trở ngại hay phản đối, mà còn trở nên tích cực và kiên quyết hơn. Ngài ấy lúc trò chuyện riêng tư hay trong diễn thuyết công khai, điều chỉ thị cho những người cộng tác: Đừng chỉ lấy công việc làm điều kiện kiếm tiền, mà phải dùng “Công việc để hưởng thụ”, thì công việc sẽ tự khắc vui vẻ và tích cực.

Đương thời, “Cuộc vận động đời sống mới” dưới sự chỉ đạo của ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch, được triển khai hừng hực khí thế; Hơn nữa, quốc nạn trên đầu, cũng khiến cho ý thức “Cứu quốc chí thượng, kháng chiến đầu tiên” cũng khắc sâu trong tâm khảm người dân; Đồng thời, trên chiến địa nào có khu vui chơi, nào có cơ hội giải trí, nên tư tưởng triết học nhân sinh “Công việc chính là hưởng thụ” mà linh mục Lôi truyền bá, thật là vừa gặp “Thiên thời”, lại có “Địa lợi”, lại cộng thêm cuộc vận động “Nhân hòa” của chỉ huy, nên tư tưởng này rất nhanh đã nảy nở, sinh sôi, trưởng thành và sinh hoa kết quả trong các thành viên của sư đoàn 12.

Giữa tháng 3 năm 28, sau khi đã tổ chức một đoàn thể “Kiên cường và linh hoạt”, linh mục Lôi lập tức triển khai công việc, mọi người phân chia bất đầu hoạt động trong các lĩnh vực cứu tế, y dược, huấn luyện, văn hóa, tuyên truyền,… hơn 400 đoàn viên, ăn không ngon mặc không ấm, trong tiếng bom, trong những thôn sơn cô tịch, ôm ấp tôn chỉ “Không làm quan, không kiếm tiền”, theo chủ trương “Làm việc chính là hưởng thụ”, ai ai cũng vui vẻ hoàn thành các loại công việc; giống như sức rồng sức hổ chạy ngược chạy xuôi, đổ mồ hôi, sôi gân cốt; hoặc vắt óc, tiêu hao tinh thần, cúi đầu bên bàn làm việc,…

Ở đây xin dẫn ra lời của một thành viên trong đoàn, có thể nói rõ tinh thần làm việc và cảm tình của mọi người lúc ấy. Anh ta nói: “Tôi trước đây mất 2h mới làm xong việc, bây giờ chỉ cần mất 1h thì có thể hoàn thành rồi; trước đây tiêu 5 đồng để làm một việc, giờ thì chỉ mất có 1 đồng. Nếu hỏi tôi tại sao như thế? Tôi cũng cảm thấy không thể nói rõ được; nhưng chí ít có một điểm tôi có thể khẳng định, đó là mọi người đều tích cực làm việc như vậy, đặc biệt linh mục Lôi làm việc giống như “không biết mệt mỏi là gì” vậy, tôi làm sao có thể an phận thủ thường mà không cảm thấy hổ thẹn đây? chính là sức mạnh “Trực giác” này, đã khiến tôi cảm nếm được niềm vui của công việc vậy”.

MUỐN CỨU QUỐC, TRƯỚC TIÊN PHẢI CỨU DÂN

Trong thời gian kháng chiến, những hành vi tàn bạo mà quân Nhật đã thực hiện trên đất nước ta không dừng ở ngàn vạn! Thứ tàn bạo nhất trong đó là sau khi chiếm cứ một “địa điểm” hay một “phòng tuyến”, liền đi càn quét những thôn trang bên ngoài cứ điểm. “Càn quét” mà chúng ta gọi, không chỉ là đồ sát quân nhân kháng chiến, mà còn cướp bóc, đốt nhà. Hơn một năm trở lại, chúng tôi liên tục chiến đấu ở núi Thái Hành, Đông nam Tấn và núi Trung Điều, nhìn thấy phàm là những thôn trang mà quân Nhật đã đi qua, dường như chỉ còn lại đống tro tàn đổ nát, không một bóng người.

Nhiệm vụ của đoàn chúng tôi là giám sát và chỉ dẫn dân chúng ở chiến địa tham gia công cuộc kháng chiến cứu quốc. Nhưng để huy động sức mạnh kháng chiến cứu quốc của dân chúng, trước tiên cần phải duy trì và bồi dưỡng sức mạnh này. Dân lấy thực làm trời (quần áo và chỗ ở đương nhiên cũng ở trong đó), nên linh mục Lôi cho rằng công việc không thể trì hoãn một giây, chính là trước tiên phải giải quyết vấn đề “Dân sinh”. Bước đầu tiên là phát động “Canh tác vụ xuân”. Linh mục Lôi không chỉ phái người đi khắp nơi khuyên bảo nông dân trở về cày cấy vườn tược, mà còn phái người tới hậu phương (Lạc Dương – Hà Nam) mua một lượng lớn hạt giống rau sanh ngũ cốc, phân phát miễn phí cho nông dân các thôn cày cấy, đồng thời ngài ấy cũng phái người đi đặt mua rất nhiều đồ dùng hằng ngày, như: nồi niêu soong chảo, bát đũa muôi thìa,… phân phát cho những hộ dân bị Nhật khấu cướp bóc.

Sau này còn nghe nói, rất nhiều nạn dân từ Hà Bắc, Hà Nam, trong vùng chiếm đóng của địch cũng đào thoát chạy nạn đến Đông Nam Tấn, chúng tôi phải thành lập những trại tiếp đón nạn dân lâm thời trong một giải Dương Thành, Sơn Tây. Sĩ phu Dương Thành nghe thế, họ không chỉ phái đại biểu đến bày tỏ lòng biết ơn, mà còn cung cấp những nơi dừng chân tươm tất. Dương Thành có mấy gia đình giàu có sở hữu rất nhiều nhà cửa, đã rộng lượng cung cấp miễn phí cho chúng tôi sử dụng để tiếp đón nạn dân. Nội trong nửa năm, chúng tôi đã thu nhận ít nhất 2000 nạn nhân trở lên. Ngoài việc cung cấp thực phẩm và chỗ ở, chúng tôi còn đặt mua những máy dệt vải di động, máy dập bông, máy khâu vá và dụng cụ làm giày, tạo cơ hội cho nạn dân làm việc. Lợi nhuận thu được cũng chia cho nạn dân, làm thành lộ phí để bọn họ trở về nhà.

Ngoài ra, ở khu vực núi Trung Điều, thuốc thang thiếu thốn, nhưng bệnh nhân lại nhiều; chúng tôi ngoài việc thành lập những bệnh viện, mời một giáo dân họ Kiều, chức danh tiến sĩ làm viện trưởng; mời những nữ tu dòng Têrêsa kiêm nhiệm hộ sĩ và các công việc khác, và tổ chức các đội khám chữa bệnh lưu động tới các thôn làng chữa bệnh. Sau này lại chế tạo ra vô số “kho thuốc” — là những hộp gỗ tiện lợi, lớn hơn “Túi cứu thương” một chút, có thể chứa hơn mười mấy loại thuốc nội ngoại khoa thường dùng, bên cạnh còn có sách hướng dẫn, để tặng cho người nghèo chữa bệnh. Có người đã hỏi linh mục Lôi: “Ngài lấy ở đâu ra nhiều tiền như thế?” ngài ấy luôn là nói: “Có công việc thì có tiền vậy!”.

SÁCH BÁO VŨ KHÍ SẮC BÉN CỦA KHÁNG CHIẾN

Napoleon từng nói một câu như thế này: “Một cây bút còn hơn 3000 cây súng Mauser”. Những năm gần đây, chúng ta nhìn thấy tất cả sức mạnh của “tuyên truyền” trong “những tính toán” nơi chiến tranh lạnh, thì có thể biết lời nói trên quả thực chẳng phải là lời nói quá.

Không chỉ trên chiến địa, mà ngay cả trong xã giao hay trên thương trường, bất cứ ai cũng đều nhìn thấy sự vĩ đại của lực lượng “tuyên truyền”. Vì thế, công đồng Vaticano II đã cảm nhận sâu sắc sự thiếu sót của giáo hội trong quá khứ, khi không quan tâm đủ đến kỹ thuật truyền bá Phúc Âm, nên đã đặc biệt ban bố “Hiến chế về phương tiện truyền thông xã hội”, đặc biệt là sách báo, phải tận dụng thật tốt, tùy thời mà cải tiến và không ngừng hoàn thiện, để xây dựng nhân tâm và truyền giảng thiên quốc.

Hơn 70 năm về trước, khi giáo hội Trung Quốc vẫn cố giữ lấy cái phương thức truyền giáo “Tuyên truyền bằng miệng” cũ kỹ và cứng ngắc, thì có một người chẳng để ý đến phản đối và những lời châm chọc mỉa mai, đã phá vỡ đi truyền thống vốn có, lợi dụng báo chí để làm phương tiện truyền bá Phúc Âm, con người đó chính là linh mục Lôi Minh Viễn. Ngài ấy thừa hiểu cái sức mạnh to lớn của báo chí đối với việc xây dựng nhân tâm cũng như an nguy của xã hội, thế là ngay từ thời Mạt Thanh ngài ấy đã ở Thiên Tân lập nên tờ “Quảng Ích Lục”, sau này đổi thành “Nhật báo Công Giáo Ích Thế”; và đến năm Dân quốc thứ tư, tờ báo này mở rộng xuất bản thành “Nhật Báo Ích Thế”. Sau khi giáo phận An Quốc được thành lập, ngài ấy lại xuất bản Nguyệt san Công giáo tiến hành của giáo phận này. Rồi sau biến sự “77”, trước khi gác bút tòng quân, ngài ấy ở An Quốc lại lập nên tờ “Nhật Báo Hậu Phương” kéo dài tới ba tháng.

Trong hơn một năm làm công việc cứu thương, vì tính đặc thù của hoàn cảnh, cũng như sự thiếu thốn về nhân lực vật lực, đặc biệt vì sự bận bịu của công việc cứu thương, linh mục Lôi vẫn chưa thể khôi phục “Sự nghiệp xuất bản” vẫn ngày ngày đeo đẳng ngài ấy.

Về sau, khi Đoàn giám sát với công việc chính yếu là “Phát động dân chúng tại chiến địa hiệp trợ Quốc Quân kháng chiến” được thành lập, linh mục Lôi cho rằng: Để thực thi tôn chỉ này cũng như ước muốn động viên và kích phát cảm thức kháng chiến của dân chúng, thì nhất định phải bồi dưỡng tinh thần ái quốc của họ. Đây không phải là “Tuyên truyền” cũng không thể. Linh mục Lôi hiểu rất rõ đạo lí trong đó, vì thế, sau khi chúng tôi đến núi Trung Điều, một mặt liền mở rộng công việc chữa bệnh và cứu tế, một mặt cũng không ngừng triển khai công tác huấn luyện và tuyên truyền.

Trên phương diện tuyên truyền, ngoài việc thành lập đội tuyên truyền; cũng như mỗi đêm còn lần lượt tới các thôn tổ chức nhạc hội, ca hát, diễn thuyết, diễn kịch,… chúng tôi tại bộ chỉ huy của đoàn còn thành lập một “Nhà xuất bản”, do Ban Thư Ký và Ban tuyên huấn liên hợp chủ trì. Tại khu vực núi Trung Điều, có thể nói căn bản là chẳng có điều kiện làm báo, chứ không muốn nói là chiến sự thường xuyên nổ ra, khắp nơi rực lửa sát khí, thật sự muốn tìm một nhà in, còn khó hơn cả lên trời vậy. Nhưng với một linh mục Lôi luôn luôn “Không chịu để hoàn cảnh chi phối, không chịu cúi đầu trước khó khăn”, thì luôn luôn có biện pháp phá vỡ những ải khó khăn. Ngài ấy trước tiên sai chúng tôi mua 2 cái máy in noneo, để xuất bản một tập chí không định kỳ. Mùa xuân năm 28 tại chiến khu núi Trung Điều, trước sau đã xuất bản ba loại tạp chí: “Bắc Địa”, “Mọi Người Xem” và “Báo Họa Hoa Đạn”.

Sau nửa năm, linh mục Lôi thông minh gan dạ, đã kêu chúng tôi đặt mua một trước máy in thạch bản từ hậu phương, kèm theo một bác thợ in thạch chuyên nghiệp. Tất cả đều được chuyển tới bộ chỉ huy đoàn tại núi Trung Điều, và cùng với đó đã thành lập một xưởng in nhỏ tại chỗ, chuyên in ấn các loại văn kiện và tạp chí của bổn đoàn.

Không lâu sau đó, kì tích đã xuất hiện: đột nhiên có một ngày, mấy vạn quân nhân ở núi Trung Điều đã nhìn thấy Nhật báo của ngày hôm đó, đó là số đầu tiên của “Báo Chiến Bắc Nguyên” do bổn đoàn dùng in thạch xuất bản đã trình làng với tất cả mọi người.

Đó là một trang Nhật báo bình thường và nửa trang đại báo giấy. Bản thứ nhất là tin tức quan trọng, xã luận và thông tin chiến sự tại chỗ; bản thứ 2 là phụ san, trong đó có văn nghệ, câu chuyện, đoản văn,… có liên quan đến kháng chiến kiến quốc và cuộc vận động đời sống mới. có khi cũng có tiết mục giải đáp vấn đề của Công giáo.

Nguồn gốc của tin tức, ngoài việc phái ký giả đến phỏng vấn các trưởng quan và các thôn trưởng nơi chiến địa, thì phần lớn tin tức quan trọng là lợi dụng máy phát thanh của bổn đoàn để tiếp nhận những tin tức mà Đài phát thanh Trung ương công bố.

Ban thư ký của bổn đoàn có một thành viên mà thư pháp tương đối khá; anh ta viết “Chữ thể phỏng Tống” thập phần giống y như đúc. Xã luận và tin tức quan trọng của bản thứ nhất đều do anh ta dùng “Chữ phỏng Tống” viết trên giấy thuốc mà máy in thạch bản sử dụng, để làm ra những bản tương tự. Bản in Sau khi cho người in ra, có thể nói là chẳng có mấy khác biệt so với bản chì. Rất nhiều người nhìn thấy, đều kinh ngạc đập bàn tán thưởng.

Có một lần tham mưu trưởng quân đoàn 3 nhìn thấy tôi, và nói đến “Báo Chiến Bắc Nguyên”, tôi đem nội tình công việc in ấn và những thứ liên quan của tờ báo này,  thổ lộ cho anh ta một chút, anh ta vừa cao hứng và ngạc nhiên dơ ra ngón tay cái, dùng thuật ngữ Tứ Xuyên nói: “Linh mục Lôi quả thật là người tuyệt vời!

Để khơi gợi tư tưởng ái quốc của dân chúng nơi chiến địa, ngoài xuất bản báo giấy, chúng tôi còn bố trí những thư viện lưu động gọi là “Xe văn hóa”, là những trước xe dùng mấy con lừa (do đường núi không thể chạy xe) thồ một số thư tịch, báo chí, Nguyệt san,… đặt mua ở hậu phương; chu du khắp các thôn trang và các đơn vị quân sự. Có thứ là tặng đọc, có thứ là bán rẻ như cho.

Có người hỏi linh mục Lôi: “Hiệu dụng của “xe văn hóa” như thế nào? Đáp án của ngài ấy rất khéo léo: hiệu dụng của thực phẩm cứu tế và “Kho thuốc giám sát” của bổn đoàn là bề mặt, hiện thực và có hạn; công dụng của “Xe văn hóa” là nội tại, có tiềm năng, và lại là vô hạn nữa!”.

TỐT CHƯA TỪNG CÓ

Sau khi tiến vào chiến khu núi Trung Điều từ tháng 3 năm 28, ngoài những công việc tuyên truyền, chữa trị và cứu tế đã được kể ở trên; Đoàn giám sát của linh mục Lôi đối với việc giáo dục dân chúng tại chiến địa cũng đã bỏ xuống không ít công phu, và cũng đã thu được không ít thành quả:

— Mở trường

Các thôn trấn khu vực núi Trung Điều, giáo dục lúc bình thường cũng không phát triển, ngoài các huyện thành hoặc các thôn trấn lớn, thì những nơi khác rất khó để nhìn thấy một ngôi trường. Tới thời kỳ kháng chiến, ngay cả những trường học ngày thường mở cửa cũng vì chiến tranh tràn lan mà phải tạm dừng, thì làm sao có thể bàn tới những cơ sở giáo dục hiện đại khác đây!

Khi chúng tôi từ Hán Khẩu đi qua Trùng Khánh, linh mục Lôi đã yết kiến bộ trưởng bộ giáo dục Trần Lập Phu tiên sinh, và cũng có bàn thảo qua vấn đề này. Bộ trưởng Trần đối với vấn đề này cũng cực kỳ thể hiện sự coi trọng, và xin linh mục Lôi sau khi trở về tiền tuyến xem xét tình hình thực tế, thì vạch định những kế hoạch cụ thể báo cáo cho bộ trưởng xem xét và phê duyệt. Bộ trưởng Trần đáp ứng sẽ toàn lực hỗ trợ.

Sau khi chúng tôi trở lại núi Trung Điều, ban tuyên huấn của bổn đoàn đã phái người cùng với các thành viên các nhóm khác đã làm một cuộc điều tra toàn diện. Sau đó tại các thôn liên tiếp thành lập những trường tiểu học “tư thục”, mỗi ngôi trường thu nhận từ 10 đến 50 em thiếu nhi các loại. Theo như tôi được biết, ở khu vực núi Trung Điều trước sau đã thành lập hơn trăm ngôi trường như thế. Sách giáo khoa mà học sinh dùng hoàn toàn do bộ giáo dục cung cấp miễn phí. Tiền lương và chi phí hành chánh cũng đều do bộ giáo dục chi tiền thanh toán.

Đốc thúc tiến hành cuộc vận động đời sống mới

Mặt bằng văn hóa ở núi Trung Điều và núi Thái Hành rất thấp, đời sống dân chúng ở đó mặc dù không thể nói là giống người nguyên thủy, nhưng so với người bình thường thời ấy thì có cách biệt rất ra. Ví dụ: rất nhiều nữ tử thanh niên vẫn còn đang thực hành tục “bó chân”; rồi người và gia súc ở chung; heo gà chạy loạn đầy đường, rác rưởi quăng ném khắp nơi; dân chúng vì ủ phân tích trữ mà nhà vệ sinh được dựng tràn lan khắp các đầu đường xó chợ; vì thế mà mức độ ô nhiễm không khí thực sự không thể tưởng tượng được. Đời sống của linh mục Lôi vốn dĩ cũng cực kỳ thanh khổ, nhưng lại rất chú trọng sạch sẽ, kỷ luật và vệ sinh. Đồng thời, để hưởng ứng “Cuộc vận động đời sống mới” do ủy viên trưởng họ Tưởng đề xướng, linh mục Lôi liền tổ chức thành lập một “Hiệp hội đẩy mạnh vận động đời sống mới”, một dải ba mặt của núi Trung Điều đã triển khai cuộc vận động “Sạch sẽ”, một mặt tuyên truyền, một mặt giám sát chỉ đạo, dùng phương pháp “Thưởng phạt công khai” dán lên của mỗi nhà những chữ đại loại như là: “Sạch sẽ nhất”, “Sạch sẽ”, “Ô nhiễm”, “Ô nhiễm nhất”,… để cổ vũ dân chúng thực hành đời sống mới. Sau một tháng, thành tích thật không tệ: heo gà được nhốt trong chuồng trại, số nhà vệ sinh giảm dần, và trở thành những nhà vệ sinh đúng với tên gọi, nên không chỉ trên đường không thấy phân và nước tiểu, mà mỗi gia đình cũng sạch sẽ kỷ luật hơn nhiều. Khuôn mặt của mọi thôn dân cũng biểu tỏ sự hoạt bát hơn.

— Huấn luyện thôn trưởng

Để tiến hành công việc “Phát động dân chúng hiệp trợ quốc quân kháng chiến”, chúng tôi khi vừa tới núi Trung Điều, thì ban tuyên huấn liền mở “Lớp huấn luyện trưởng thôn”, mỗi tháng một kỳ, liền một mặt tổ chức ba kỳ, nên đã huấn luyện hơn trăm thôn thưởng. Chúng tôi dạy bọn họ làm thế nào phát động dân chúng hiệp trợ Quốc Quân kháng chiến, như vận chuyển thương binh, đạn dược và đồ cấp dưỡng,…

Lớp huấn luyện kỳ đầu tiên vừa kết thúc, thì gặp đúng ngay giữa tháng 4 quân địch đang tiến hành xâm phạm núi Trung Điều. Hơn 30 trưởng thôn vừa mới tốt nghiệp, lập tức đem kiến thức bản thân mới học thi thố với đời: bọn họ đích thân dẫn dắt thôn dân làm việc cho Quốc Quân, như: vận chuyển đạn dược, cáng thương binh, sửa đường dựng cầu,…

Tổng tư lệnh Quân đoàn 5, Tướng quân Tăng Vạn Trung nghe biết việc này, đã đặc biệt điện đàm với Ủy viên trưởng xin nhường đoàn giám sát của linh mục Lôi ở núi Trung Điều làm nhiều việc hơn, để thiết định nền tảng căn bản cho sự hợp tác của quân dân ở núi Trung Điều.

— Xây dựng “trạm giao thông công lộ viên trường”

Linh mục Lôi đã đáp ứng yêu cầu của tổng tư lệnh Tăng, quyết định dấn thân vào nhiều công việc hơn ở núi Trung Điều trong đoạn thời gian này. Nhưng ngài ấy cũng không thể không theo những kế hoạch đã định, phát triển hướng sang khu vực núi Thái Hành. Thế là ngài ấy liền phái một đội trong đoàn ước khoảng 50 người tiến vào núi Thái Hành mở đường.

Thành viên nhóm này trên đường qua núi Thái Hành, đã phát hiện một đường từ núi Trung Điều tới núi Thái Hành đều là đồi cao hiểm trở, quanh co gấp khúc, vì thế đi lại vô cùng khó khăn bất tiện, đặc biệt vấn đề ăn uống ngủ nghỉ cũng không dễ dàng giải quyết. Hơn nữa, đoạn đường này lại là huyết mặt từ hậu phương tiếp tế cho núi Thái Hành. Ngoài ra, bất luận là điều động quân đội, tiếp tế quân nhu, hay vận chuyển thương binh đều cũng phải đi qua con đường núi này, nên kết luận là đoạn đường này thực sự cần thiết phải cải thiện thôi!

Linh mục Lôi sau khi đã biết tình hình này, liền lập tức triệu tập cuộc họp, thương lượng bàn thảo biện pháp giải quyết. Qua mấy lần trao đổi, sau cùng quyết thành lập “Trạm giao thông công lộ viên trường”, tức là thành lập các trạm phục vụ dọc theo con đường từ Viên Khúc đến Trường Trị; 30km một trạm nhỏ chỉ phục vụ trà nước; 50km một trạm lớn thì phục vụ đồ ăn cũng như chỗ nghỉ ngơi. Trà nước chỗ nghỉ cái gì cũng được cung ứng miễn phí, nhưng đồ ăn thì chỉ lấy giá gốc. Người qua lại ai ai cũng đều kêu rẻ và tiện.

Sau hai tháng, linh mục Lôi lại được gọi qua Trùng Khánh tiếp kiến Ủy viên trưởng họ Tưởng. Họ Tưởng đối với những công việc mấy tháng gần đây thì sớm cũng đã nghe biết, nên vừa nhìn thấy linh mục Lôi, liền mở miệng tán thưởng: “Việc ngài làm thật không thể tin được, tuyệt vời hơn cả, tốt đẹp chưa từng thấy bao giờ!”.

MƯỜI NGÀY Ở CÔN MINH

Giai đoạn đầu của kháng chiến, Long Vân, chủ tịch Vân Nam, đối với chiến lược “Toàn quốc kháng chiến” của Trung ương thì chẳng có biểu hiện tích cực hỗ trợ. Côn Minh, hậu phương của đại hậu phương, dưới sự dẫn dắt của anh ta, tỏ ra vô cùng im ắng: ngoài mấy bài báo tỏ lộ một chút tin tức kháng chiến, thì mỏi mắt cũng chẳng thấy bất cứ hơi thở kháng chiến nào.

Quân đoàn 3 trung ương mà đội cứu thương chúng tôi phục vụ đều là con cháu người Vân Nam. Bọn họ vô cùng rõ tình hình chính trị của quê hương mình, nên khi trò chuyện khó tránh khỏi phát ra những lời than trách. Vì thế, linh mục Lôi cũng đã nghe không ít tin vịt có liên quan đến Côn Minh. Linh mục Lôi yêu nước nhiệt liệt, rất muốn trò chuyện với Long Vân, liền mang thư giới thiệu do chính tay Tổng tư lệnh Tăng Vạn Trung (người Vân Nam) viết, vào giữa tháng sáu năm 28, trước tiên bay tới phụ đô Trùng Khánh xin chỉ thị của Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch, rồi sau đó bay tới Côn Minh. Ngài ấy và chủ tịch Long đã gặp gỡ trò chuyện qua 2 lần, kết quả vô cùng thuận lợi. Chủ tịch Long không chỉ bản thân quyên góp một khoản lớn, ủy thác linh mục Lôi mang ra tiền tuyến an ủi tướng sĩ kháng chiến; mà còn cho phép linh mục Lôi ở Côn Minh công khai diễn thuyết tuyên truyền kháng chiến, thu thập quần áo, vật tư, lương thực, thuốc men,… để ủy lạo các chiến sĩ kháng chiến.

Linh mục Lôi đã ở côn minh 10 ngày, ngài ấy đã thực hiện rất nhiều buổi diễn thuyết ở trường đại học, ở trường trung học, ở các nơi công công, ở các đoàn thể cơ quan,… khắp nơi đều có thể nghe thấy tiếng hô “Kháng chiến tất thắng” của ngài ấy. Thu hoạch trong mười ngày ở Côn Minh của ngài ấy không phải là một con số hữu hình có thể hình dung, ở đây cũng không dự định liệt kê ra điều đó.

Trong đêm trước khi cáo biệt Côn Minh, ngài ấy đã viết một bài “CẢM TƯỞNG 10 NGÀY Ở CÔN MINH” đăng trên Báo Ích Thế ở Côn Minh. ở đây lần nữa công bố ra. Từ đoạn văn chương này có thể nhìn ra thành tích của linh mục Lôi trong 10 ngày ở Côn Minh, thực sự là huy hoàng vĩ đại; và càng có thể nhìn ra sự kiên cường của ngài ấy đối với niềm tin “Kháng chiến tất thắng”. Bây giờ đọc lại thật giống như là ngài ấy đang diễn thuyết sau ngày thắng lợi vậy. Dưới đây chính là bút tích để lại của ngài ấy:

CẢM TƯỞNG MƯỜI NGÀY Ở CÔN MINH

(Lôi Minh Viễn)

Tôi ở Côn Minh trọn vẹn đã mười ngày rồi. Tôi ngày 19 tháng này từ Trùng Khánh đến, và đến ngày 29 cùng tháng thì rời đi tới Thành Đô, vậy là đã ở Côn Minh trọn vẹn cả 10 ngày. Trong mười ngày này, bạn bè mới cũ đều hỏi ấn tượng của tôi đối với Côn Minh là như thế nào? Tôi thật không biết trả lời như thế nào, mấy ngày nay tôi quá bận rộn: gặp gỡ bạn bè, diễn thuyết; nên ấn tượng đều là những mảnh ghép vụn vỡ, đều tìm không ra đầu mối; tất cả đều cảm thấy tốt, nhưng một chữ tốt lại quá mơ hồ qua loa; ấn tượng này lại quá đơn thuần rồi, nên tôi vẫn là nói ra cảm tưởng của tôi vậy!

Sau khi tới Côn Minh, niềm tin kháng chiến tất thắng của tôi càng được củng cố vững chắc. Trung Quốc vĩ đại như vậy, tới Côn Minh rồi, dường như đã tới một quốc gia mới vậy. Khí thế mới hừng hực của Côn Minh khiến tôi cảm thấy như vừa được đến thủ đô của một quốc gia mới vậy. Tôi ở Hoa Bắc mấy mươi năm, đi qua rất nhiều nơi, đương thời đã cảm thấy Trung Quốc vĩ đại; sau này rất nhiều nơi ở Hoa Bắc rơi vào tay địch, khiến tôi tương đối lo lắng; tiếp sau đó, tôi đã làm việc hơn một năm ở núi Trung Điều, một khu vực miền núi mà đông tây trải dài 200km, còn nam bắc rộng tới 300km, Nhật khấu đã tấn công nơi này bảy tám lần, nhưng đều thất bại, và đã để lại đó rất nhiều sinh mạng, vũ khí và vật lực. Khi ấy, tôi đã cảm thấy Trung Quốc thật vĩ đại, tuyệt đối không thể bị Nhật khấu làm diệt vong. Về sau, tôi đã đến Tứ Xuyên, đã nhìn thấy thiên phủ với đất đai màu mỡ bạt ngàn mà thế giới thường miêu tả; tôi cảm thấy điều này là đủ để trở thành một quốc gia lớn. Uhm! Chúng ta vẫn sợ quốc đảo Nhật Bản sao? Chúng ta sợ tiểu quỷ Nhật Bản ư? Trung Quốc thật vĩ đại. Niềm tin “Trung Quốc vĩ đại” này ở trong tim tôi, khiến tôi đã chiến thắng Nhật khấu trong con tim này rồi. Quả thật, niềm tin kháng chiến tất thắng của tôi càng kiên định hơn rồi.

Trước đây, khi tôi làm việc ở núi sâu trong các khu vực tiền tuyến, luôn được nghe một số tin vịt, nói dân chúng hậu phương không phấn khởi, nói chí khí của dân hậu phương chẳng hăng hái, tôi không quá tin tưởng, nên tôi luôn muốn đến hậu phương xem xem thế nào. Tới Côn Minh rồi, tôi đã đến hậu phương của hậu phương, chỗ nào không phấn chấn đâu? Chỗ nào không phấn khởi hăng hái đâu? ở Côn Minh, thứ tôi nghe tôi thấy, người tôi tiếp xúc gặp gỡ, ai ai cũng đều kiên quyết kháng Nhật; ai ai cũng đều sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ, sẵn sàng mang vác trách nhiệm kháng Nhật. Đây không phải là những lời nói suông, vì lần này tôi tuy ở Côn Minh một đoạn thời gian ngắn ngủi, nhưng đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ. Đó là minh chứng cho sự sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ, sự sẵn sàng mang vác trách nhiệm kháng Nhật của đồng bào Vân Nam. Nhớ lại quang cảnh tôi ở tiền tuyến nhìn thấy quân địch, bọn họ sa sút tinh thần, bọn họ chán nản sầu não, bọn họ vì áp lực chiến tranh mà tự sát tập thể, vì sợ chết mà cầu xin lòng thương xót, ấn tượng ấy đối chiếu với khi thế ở Côn Minh hôm nay, thì sự nghiệp kháng chiến tất thắng của chúng ta không phải là nắm chắc vạn vạn phần sao?

Thời gian hơn một năm nay của tôi đều là đi theo binh sĩ tướng lĩnh của sư đoàn 3 mà đa phần đều là con cháu người Vân Nam. Bọn họ gian khổ nhẫn nại, bọn họ dũng cảm thiện chiến, bọn họ trung thành ái quốc, bọn họ chất phác hữu hảo; đối với đồng bào Vân Nam, tôi thì đã sớm quen biết, nên tôi vốn đã rất kính ái; lần này tôi đã ở Côn Minh Vân Nam mười ngày rồi; tôi cảm thấy những ấn tượng trước đây đã đắc được trong sư đoàn 3 đều không phải là đặc thù, mà là tính cách phổ biến của người Vân Nam. Thật sự, tôi đối với đồng bào Vân Nam lại đã tăng thêm nhiều lần kính ái. Lần này ở Côn Minh, tôi nhìn thấy vóc dáng của người Vân Nam đều tráng kiện, làm việc cũng đều nỗ lực; tôi nhìn thấy tráng đinh Vân Nam đều oai phong hùng dũng; và cũng nhìn thấy thể chất của nam nữ tráng niên ở đây đều tốt hơn rất nhiều những tỉnh khác, thật khiến tôi hưng phấn, khiến tôi vui vẻ, khiến tôi nhìn thấy hi vọng vô hạn của Trung Quốc chúng ta.

Tôi ở Trùng Khánh đã yết kiến Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch; tôi đã nhìn thấy lãnh đạo vĩ đại và tối cao của nước ta, và trên tinh thần cũng đã thu nhận nhiều cảm ứng, nên tôi liền cảm thấy sự phục hưng của dân tộc Trung Quốc đã có chỗ để dựa rồi.

Lần này ở Côn Minh, tuy chỉ là mười ngày ngắn ngủi, nhưng tôi cố nhiên cũng đã quyên được lượng lớn thuốc men cũng như các vật phẩm khác cho các tướng sĩ ngoài tiền tuyến. Tôi quả thực đã chẳng hao phí tâm huyết  và khí lực khi đi chuyến này. Những vật phẩm đó đều là biểu hiện của con tim ái quốc không chỉ trong giới chính trị, giới giáo dục hay dân thường mà thôi, mà đó còn là biểu hiện ái quốc của các viên chức liên hợp các tôn giáo lớn, với tiền lương thiếu trước hụt sau, đã tự động quên góp một phần lớn phí sinh hoạt, để ủy lạo chiến sĩ tiền tuyến. Đây là sự động viên tinh thần, thật sự khiến người ta cảm động. Tôi vì thế cũng thật sự cảm thấy vui vẻ đối với sứ mệnh của bản thân. Tôi vừa có thể thay mặt dân chúng hậu phương ủy lạo tiền phương, lại vừa có thể thay mặt tướng sĩ tiền phương cảm tạ hậu phương, đây quả thật là một sứ mệnh vinh dự biết bao. Tôi vô cùng hạnh phúc khi đã đến Côn Minh.

Lần này ở Côn Minh, đã gặp gỡ rất nhiều thanh niên trong các nơi diễn thuyết; họ đều dùng thái độ nhiệt liệt thành khẩn tiếp nhận diễn thuyết của tôi, tôi sợ rằng, tôi đã phí phạm thời gian rất quý báu của thanh niên bọn họ, những người tôi đã gặp qua đang theo học ở Côn Minh, nhưng lại không biết những lời của tôi có giúp ích hay an ủi gì cho tri thức, ý thức và cảm tình của họ hay không? Giờ đây sắp rời đi, tôi thật sự nhớ nhung bọn họ, khi tôi nhìn thấy họ, tôi đã nhìn thấy đội ngũ sẽ kiến tạo Trung Quốc trong tương lai. Tiền đồ mới, sinh mệnh mới, cũng như tất cả hy vọng mới của Trung Quốc đều trôi nổi trước mắt của tôi. Miệng tôi diễn thuyết cho họ nghe, nhưng tim tôi lại đang chúc phúc cho bọn họ. Khi ánh mắt đơn thuần ngây ngô của lớp thanh niên này chăm chú nhìn tôi, dũng khí đi tới tiền phương kháng chiến của tôi cũng gia tăng gấp bội, vì thế quyết tâm cũng kiên cường hơn bao giờ hết. Tôi không tiếc những năm tháng tuổi già còn lại của tôi đi liều mạng với địch khấu. Tôi muốn thay những người thanh niên mà tôi yêu mến đi tranh đoạt tự do, hạnh phúc, quyền sinh tồn,… tôi và chúng thanh niên là phân công hợp tác, họ trước hết là nỗ lực tu dưỡng, và tương lai họ sẽ gánh vác trách nhiệm kiến tạo trung quốc mới.

Quốc dân tới tiền phương tham gia công việc kháng chiến là nghĩa vụ, là quyền lợi, là gian khổ; nhưng trong gian khổ, chúng ta có thể đạt tới kiến thức; Là mệt mỏi, nhưng trong mệt mỏi, chúng ta có thể đạt được kinh nghiệm. Lần kháng chiến này là cuộc cách mệnh vĩ đại trước giờ chưa từng có trong lịch sử hơn 4000 của dân tộc Trung Hoa chúng ta. Chúng ta có thể tự gặp gỡ sự thịnh vượng, cũng như đích thân kết giao với những việc khác, nỗ lực tận dụng sự mỏng giòn của cá nhân, hợp tác xây dựng vĩ nghiệp của dân tộc. Đây không phải là quyền lợi thì là cái gì! Tham gia vào loại công việc cách mệnh vĩ đại trước giờ chưa từng này, sẽ gia tăng cho cá nhân biết bao kinh nghiệm và kiến thức. Đối với công việc của cá nhân trong hai năm đã qua này, thu tích của cá nhân tôi không chỉ thân thể sung sức hơn, tinh thần hăng hái hơn, tôi còn nhiều lần tận mắt những tình huống chân thật của các thôn làng, khiến tôi hiểu rõ hơn rất nhiều những phong tục của người dân; khiến tôi quen biết nhiều hơn những lão bách tính thật thà chất phác; khiến cho tôi gia tăng sự hiểu biết đối với rất nhiều vấn đề của Trung Quốc. Những kinh nghiệm và kiến thức này thật khó lòng mà tìm thấy trên sách vở hay trên giảng đường. Vì vậy, tôi cổ vũ những bạn hữu thanh niên đã tốt nghiệp, cũng như những người trẻ mạnh khỏe và có kĩ thuật chuyên môn trong xã hội, hăng hái lên tiền tuyến làm việc. Cách đặc biệt, tôi cũng mời gọi các bác sỹ, y tá, nhân viên tuyên truyền,…nguyện ý đáp lại tiếng gọi của tiền tuyến. Chiến khu vô cùng thiếu thốn, nhưng nếu có những người đồng chí hướng như vậy, tôi rất hoan nghênh mời những người ấy gia nhập đoàn thể của chúng tôi, cùng nhau tới tiền phương, tới chiến khu, tới phía sau địch làm việc. Tôi là một lão già có kinh nghiệm, tôi nguyện sẽ dẫn đường cho anh em.

Tôi hôm nay đã phải rời khỏi Côn Minh, vùng đất với khí hậu nồng ấm, với phong cảnh mỹ lệ, với tình cảm nhiệt liệt, và với tình bằng hữu chân thành này. Lòng tốt của sự hiệp trợ và sự phục vụ tận tình của bạn hữu và các vị trưởng quan, vì thời gian ngắn ngủi của tôi không thể cho phép tôi đi cảm ơn và cáo biệt từng người. tôi phải nhanh chóng đem vật chất và tinh thần của Côn Minh chuyển tới tiền phương. Những chiến sĩ ở núi Trung Điều, gần nhất lại có thêm một thắng lợi lớn. Vật phẩm ủy lạo của Côn Minh chính là thời gian. Những vật phẩm ủy lạo này có thể khiến tiếng hát khải hoàn của chiến sĩ tiền phương càng êm ái, hùng tráng và vang vọng hơn biết bao. Tiếng gọi thắng lợi và nhịp điệu tiến bước của núi Trung Điều giờ đây chính là núi vang cốc vọng, gió nổi mây trôi. Tôi luyến tiếc Côn Minh, tôi càng luyến tiếc núi Trung Điều. Tôi không muốn rời xa bạn hữu ở Côn Minh, tôi lại càng không muốn rời xa hàng ngàn hàng vạn chiến sĩ đang giết địch, chống ngoại xâm ở núi Trung Điều. Tôi đi rồi, tôi đã trở lại núi Trung Điều. Lần này đi, tôi muốn qua sông Hoàng Hà, đi qua Ngọ Môn Quan, qua Cửa Tất Thắng, rửa chân ở Ngọc Tuyền, làm nhà cỏ ở Tây Sơn. Tôi muốn đứng trên đỉnh gác ở Chánh Dương Môn, Bắc Bình, vẫy tay với chúng bạn hữu ở Lầu Chính Nghĩa, Côn Minh; cùng chúc kháng chiến thắng lợi.

CỘT LỬA NÚI TRUNG ĐIỀU

Trước đây, chúng ta đã từng nhắc đến, linh mục Lôi gọi đoàn thể tu sĩ của đội cứu thương chúng tôi ở tiền tuyến là “Chân Phúc Viện theo Quân”. Ý nghĩa cách gọi này của ngài ấy là để nhắc nhở chúng tôi ở chiến địa cũng phải giống như ở tu viện vậy. Chúng tôi không chỉ nội tâm hóa sống đời sống tu đức, mà bên ngoài cũng phải hết sức có thể duy trì đời sống phép tắc của tu viện, cụ thể như là cùng nhau cầu nguyện, hát kinh, nguyện ngắm, tham dự Thánh Lễ…

Công việc của Đoàn giám sát mặc dù cũng rất nặng nề, nhưng không giống sự xao động không yên ở đội cứu thương, nên họ cũng dễ dàng sắp xếp thời gian hơn. Vì vậy, linh mục Lôi đã quy định thời gian cầu nguyện chung cho các tu sĩ của chúng tôi làm việc ở bộ chỉ huy Đoàn giám sát: sáng sớm thì cùng nhau suy niệm, tham dự Thánh Lễ; sau cơm tối thì công khai hát kinh tối.

Trong những đêm mùa hè oi bức, chúng tôi lần lượt ở ngoài trời hát kinh: dùng một cái bàn làm bàn lễ, trên mặt bàn đặt Tượng Chúa Chịu Nạn, hai bên đốt thêm hai cây nến, có khi cũng cũng thêm vài nén “Nhang”.  Tu sĩ chúng tôi ngồi quanh hai bên, giống như cách bố trí “Đội nguyện kinh” của các Dòng kín, bên xướng bên đáp phân chia hát Thánh Vịnh.

Sau giờ kinh tối, linh mục Lôi chủ trì buổi “Trao đổi kinh nghiệm tu đức” của chúng tu sĩ (giờ cảm tưởng),  chính là giờ chia sẻ điều tâm đắc trong ngày mà chúng ta ngày nay thường nói.

Lần nọ, linh mục Lôi đã trình bày cảm nhận của bản thân ngài ấy. Ý cảnh của ngài không chỉ mới mẻ sinh động, mà còn chân thành tha thiết động lòng người, nên đã lưu lại cho chúng tôi những ấn tượng hết sức sâu lắng.

Ngài ấy nói: “Cha cảm thấy giờ kinh tối mỗi ngày của chúng ta giống như “Cột lửa” đã dẫn dắt Itrael đi qua hoang mạc (Xh 13,21), lại cũng giống như “Hương lửa” trong thị kiến của Gioan tông đồ; nó không chỉ bay vút lên trời cao, làm vui lòng con tim của Thiên Chúa; mà còn chiếu rọi núi Trung Điều, khiến cho cư dân đất này đón nhận biết bao sự chúc phúc và ân sủng của Thiên Chúa. Cha có thể đặt cho nó một cái tên, gọi nó là “Cột lửa núi Trung Điều” vậy”.

Những lời này của linh mục Lôi không hề khiến chúng tôi cảm thấy được “Chiều chuộng”, trái lại nó khiến chúng tôi “Cảnh giác”, khiến chúng tôi phản tỉnh: lời cầu nguyện của tôi liệu có giống như “Trụ lửa” hoặc là “Hương thơm” không? Liệu nó có phát huy được công năng của “Trụ lửa” không? Hay là nó đã lan toả như “Hương trầm” chưa?

Những phản tỉnh này chính là ấn tượng sâu sắc nhất mà những chia sẻ này của ngài ấy lưu lại cho chúng tôi.

MẪU THÂN, … NHÌN ĐẾN CHÚNG CON NHÉ!

Linh mục Lôi không chỉ là người có ý chí kiên cường mà còn là một người “Đa tình thiện cảm”; ngài ấy không chỉ có “Con tim đầy chí tiến thủ”, mà còn có một trái tim “Nóng mềm” tràn đầy tình người. Nước mắt của ngài ấy dường như dồi dào hơn những người bình thường, nên cũng rất dễ tràn ra ngoài. Khí chất tràn đầy tình cảm này của ngài ấy đương nhiên được biểu lộ xuyên suốt cả cuộc đời của ngài, nhưng được biểu lộ chân thật và động lòng người hơn cả là trong những “Ca khúc” mà ngài ấy biên tác.

Ngài ấy mặc dù không phải là nhà âm nhạc, nhưng lại có mấy phần thiên phú âm nhạc. Ngài ấy không chỉ biết đánh đàn, mà còn có thể sáng tác. Trước đây đã từng nhắc đến, những ca khúc cũng như kinh văn bằng tiếng Trung trong Kinh Nhật Tụng, Thánh Lễ và Chầu Thánh Thể mà Tu sĩ Hội dòng Gioan Tẩy Giả chúng tôi sử dụng, đa phần đều đến từ thủ bút của linh mục Lôi. Ngài ấy thích nhất là nhạc Gregorian mà truyền thống Giáo hội sử dụng. Phàm là những ca khúc Kinh văn La Tinh có nhạc phổ, ngài ấy đều căn cứ theo âm chủ của bản gốc, sau đó gia giảm thêm bớt cho phù hợp với văn ý và số chữ ký tự Trung Quốc, làm thành một bản nhạc mới. Phàm người nào đã nghe qua những bài thánh ca do ngài ấy phổ nhạc, đều cảm thấy sự ưu mỹ động lòng. Theo như cái nhìn của cá nhân tôi, cái lý do động lòng người đó là vì, dĩ nhiên là do ngài ấy có cảm tình chân thành và kỹ xảo phối âm; nhưng thứ tôi tin tưởng và đánh giá cao hơn cả; đó là sự thâm thúy đến từ “Đời sống tu đức” của ngài ấy.

Ví dụ như ca khúc thánh ca nổi tiếng “Salve Regina”, ngài ấy vẫn theo âm chủ của bản phổ nguyên gốc tiếng La Tinh, sử dụng những mẫu tự và ngữ nghĩa của tiếng Trung, biên soạn thành 2 ca khúc: một là âm điệu đơn giản; một là âm điệu trang nghiêm. Khi hát lên, đều cảm thấy rất tuyệt vời.

Tên tiếng Trung của ca khúc này là“申爾福”, được biên theo thể văn ngôn từ hơn 300 năm trước; hơn 50 năm trước đây, Giám mục Trình Hữu Du, Giáo phận Tuyên Hóa có hưởng ứng lời mời của Đại diện Giáo Hoàng, Tổng Giám mục Cương Hằng Nghị, dịch lại phần lớn những kinh văn mà nước ta quen dùng thành “Thể văn nói”. Đáng tiếc Giám mục Giáo phận lúc ấy đều không tận dụng, mà đem nó cất vào gác cao, không biết bây giờ đã đi về phương nào rồi! nhưng một trong số đó là bài “恭賀母皇 – Cung Chúc Hoàng Mẫu”, là thể văn nói của bài“申爾福”thì lại được lưu truyền. Ngài ấy vẫn giữ nguyên âm điệu vốn có của bản La Tinh, đồng thời thích ứng với ngữ nghĩa và số ký tự văn nói của tiếng Trung mà soạn thành ca khúc mới.

Khi linh mục Lôi lần đầu tiên dạy chúng tôi luyện tập ca khúc này, thì đã có nhiều tu sĩ cảm động, nước mắt chảy giàn giụa. Nếu bạn đang gặp phải bất hạnh nào đó, bạn nghe người khác hoặc bản thân hát “Xin ghé mắt nhân từ của mẹ, nhìn đến chúng con cùng!”, thì sẽ cảm thấy sự an ủi và chỗ dựa cực lớn.

Đặc biệt khi chúng tôi làm việc ở chiến địa, mỗi ngày, bên ngoài thì có sự uy hiếp của bom đạn địch, bên trong nội tâm thì luôn hiển hiện những trắc trở của công việc cũng như những va chạm của con người với nhau, đồng thời cũng phải cộng thêm sự đơn điệu của đời sống trên núi, những nhiễu loạn của tư tưởng, bất cứ ai cũng đều không tránh khỏi những âu lo phiền não và sự nặng nề của tâm tình. Nhưng, mỗi khi chúng tôi hát ca khúc này, đặc biệt khi hát tới đoạn: “Trong hố sâu thống khổ này, hướng về ngài khóc lóc van xin”, dường như tất cả những băn khoăn lo lắng, đều theo tiếng hát và dòng nước mắt tiêu tan hết vậy.

TU SĨ KHÔNG MANG VŨ KHÍ

Theo lời khuyên nhủ của Thánh Kinh và truyền thống của Giáo hội, người có thánh chức và tu sĩ các Hội dòng không mang theo vũ khí. Ở những quốc gia mà Công giáo thịnh hành, chính phủ cũng chú trọng đến truyền thống thiện hảo này của Giáo hội, và cho phép các tu sĩ của Giáo hội trong thời kỳ phục vụ quân dịch, hết sức có thể đảm nhận công việc cứu thương hoặc “Hậu cần”, để tránh phải mang theo vũ khí bên mình.

Trước khi linh mục Lôi thành lập đội cứu thương, thì cũng căn cứ theo tinh thần truyền thống này của Giáo hội, một mặt biểu đạt với phía quân đội rằng: tu sĩ không tham gia công tác chiến đấu; một mặt nghiêm cấm chúng tôi mang theo vũ khí bên người. Nhưng nếu vì sự an toàn của thương binh, trong các trường hợp cần kíp phải sự dụng vũ lực, linh mục Lôi cũng sẽ sai phái những giáo dân đã qua huấn luyện của quân đội, đảm nhận công việc này; ngài ấy tuyệt đối không cho phép tu sĩ chúng tôi mang theo khí giới bên người.

Ngày kia, đội cảnh binh của Đoàn giám sát chúng tôi, do giáo dân tổ chức nên, đang ở trong một khe núi gần bộ chỉ huy đoàn luyện tập “Bắn bia”, một vị tập sinh trẻ, khoảng 19 tuổi, cũng đứng đó quan sát. Anh ta ở bên cạnh nhìn những giáo hữu bắn bia, nhìn một cách chăm chú, biểu tình như rất muốn, rất nóng lòng thể hiện. Có một vị giáo dân rất thân với anh ta nói đùa: “Tu sĩ **, thử một chút không?”  Nói đoạn thì đem cây súng đặt vào trong tay vị tu sĩ trẻ. Vị tu sĩ trẻ này một chút biểu tình nghĩ đến “Lệnh cấm của linh mục Lôi” cũng không có, mà chỉ nghe một tiếng “bằng!” viên đạn đã bắn trúng bia. Mọi người theo đó đều vỗ tay tán dương anh ta, còn anh ta cũng cảm thấy rất mãn nguyện, hả lòng hả dạ về tài năng bắn súng của bản thân.

Tối hôm ấy, tin tức này cuối cùng cũng truyền tới tai của linh mục Lôi; ngài ấy lập tức gọi đến vị tu sĩ trẻ nọ, và nói với anh ta: “Con không chỉ thích bắn súng, mà kỹ thuật bắn súng cũng rất cừ! Thôi! Từ giờ, Con hãy cởi áo dòng mà trở thành binh sĩ chiến đâu đi!” vị tu sĩ trẻ ấy cảm thấy tình hình ra nghiêm trọng, nên lập tức quỳ sát đất, khóc xin linh mục Lôi tha thứ, và thể tuyệt đối không đụng đến vũ khí nữa. Linh mục Lôi có ý “phạt một răn trăm”, nên lúc đầu không ưng thuận, khăng khăng muốn khai trừ anh ta; về sau, có mấy vị tu sĩ lão thành đứng ra cầu xin linh mục Lôi, mới cứu vãn được ơn gọi của vị tu sĩ trẻ kia.

Linh mục lôi nghiêm cấm tu sĩ chúng tôi sử dụng vũ khí; và bản thân ngài ấy đương nhiên cũng sẽ “Lấy mình làm gương”, ngay cả nhìn vũ khí, ngài ấy một mắt cũng không thèm hé. Nhưng có người đã tạo ra tin vịt về phương diện này của ngài: Thời kỳ kháng chiến, ở một dải Dương Thành, Tập Thành, Sơn Tây, những khu vực mà Đoàn giám sát chúng tôi hoạt động, có một nữ Mục sư Tin lành cũng ở Dương Thành truyền giáo. Sau khi kháng chiến thắng lợi, cô ta trở về bổn quốc và đã viết một đoạn hồi ký về việc truyền giáo ở Trung Quốc; cô ta nói ở Dương Thành bản thân đã nhìn thấy linh mục Lôi mang vũ khí bên người, chỉ huy tác chiến. Một vị bạn hữu người Bỉ của linh mục Lôi đã nhìn thấy đoạn văn chương đó, nên đã thất kinh và viết thư hỏi tôi, tin tức đó có phải sự thật hay không. Tôi cũng vô cùng kinh ngạc, lập tức hồi thư nói với anh ta: đó là lời nói dối khổng lồ! Tôi còn nói với anh ta: không chỉ cá nhân tôi, mà cả trăm vạn người đã thấy qua linh mục Lôi ở tiền tuyến, đều có thể chứng minh bà ta là đang nói dối. Tôi không phê bình dụng ý mà bà ta đã biên tạo tin rác này, tôi chỉ nói đây là một lời nói dối trắng trợn khổng lồ. Tôi đã đem câu chuyện “Vị tu sĩ trẻ tập bắn” được kể ở trên, gửi cho vị bạn hữu người bỉ đó, làm “Bằng chứng” có sức nặng cho lời chứng của tôi.

CON RUỒI CŨNG TRƯỢT TÉ

Biểu hiện cả đời của linh mục Lôi có mặt nghiêm khắc, nhưng cũng có mặt thoải mái. Như đã biết, ngài ấy nói chuyện vô cùng hài hước, cũng có khi mang chút sâu cay châm biếm, khiến người nghe đỏ mặt tía tai. Nhưng, mọi người cũng đều biết ngài ấy là người lấy “Thành” mà đối đãi người, nên chẳng lấy lời sâu cay mà ngài ấy nói ra làm u buồn. Chúng tôi có thể nói, trong thái độ cợt nhả của ngài ấy có sự chân thành; trong cách trò chuyện hài hước của ngài luôn có giáo huấn, khiến người nghe hay nhìn thấy, đều có một loại cảm xúc “Hướng thượng”. Câu chuyện dưới đây có thể nói rõ tác phong “Tu đức nơi hài hước” của ngài ấy.

Năm 27, khi Đoàn giám sát vừa mới được thành lập, thì có một thành niên khoảng 17 tuổi gia nhập đoàn chúng tôi. Anh ta là người Bắc Bình, là học sinh lang thang vẫn chưa tốt nghiệp phổ thông. Anh ta không chỉ trời sinh nói năng thông thạo giọng Bắc Kinh, mà con rất hài hước vui vẻ, rất có tài năng biểu diễn kịch nghệ. Linh mục Lôi sắp xếp anh ta vào Đội tuyên truyền của Đoàn. Sau này khi ở khu vực núi Trung Điều và Thái Hành, anh ta với thiên phú của mình đã có qua không ít diễn xuất rất tốt, giành được nhiều sự tán giương của người xem. Tuy nhiên, Tiểu tử này mặc dù tâm địa thành thực, nhưng hoạt bát hiếu động, thích khoe mẽ, đặc biệt là rất thích chải chuốt. Anh ta cả ngày đều mang mặc giày da tây phục không chỉ trong các thành phố lớn như Trùng Khánh, Tây An,…; mà ngay cả khi ở khu vực núi Trung Điều hoang vắng, anh ta mỗi ngày cũng đều vuốt dầu trát phấn, giống như chuẩn bị diễn kịch vậy.

Ngày kia, anh ta từ bên ngoài vừa sửa xong đầu tóc quay về. Vừa tiến vào cửa lớn của bộ chỉ huy Đoàn, vừa vặn linh mục Lôi cũng muốn ra ngoài, hai người mặt đối mặt, linh mục Lôi vừa cười vừa trợn mắt, nói cách kinh ngạc và dí dỏm: “Thật là bóng quá đi! Con ruồi bay đến đậu cũng té gãy chân luôn!

Chàng thanh niên ngây thơ ấy nghe hết những lời này của linh mục Lôi, một lời không nói, hai tay che đầu co giò chạy về phòng ngủ, dùng xà phòng tẩy rửa sạch sẽ keo vuốt trên đầu. Và từ đó trở đi, ngoài lúc lên đài diễn kịch, trên đầu không còn vuốt tóc bôi keo nữa rồi.

MỘT CÂY NẾN CHÁY HAI ĐẦU

Giám mục Điền Canh Tân, cố Hồng y đầu tiên, khi còn làm Tổng Giám mục Bắc Bình, năm 35 Dân quốc, lời đầu tiên ngài nói khi nhìn thấy tôi là “Phải giống như linh mục Lôi Minh Viễn, làm việc mãi không ngưng nghỉ vậy!

Thực sự, ấn tượng phổ biến và sâu sắc nhất mà cả đời linh mục Lôi lưu lại cho đời chính là “Luôn luôn làm việc không biết mệt mỏi”; ngay cả người không cùng chính kiến với ngài cũng thừa nhận tinh thần làm việc của ngài ấy thật đáng khâm phục. Linh mục Lôi cũng nhiều lần biểu lộ nguyện vọng của ngài ấy cho chúng tôi: “Cha nguyện chết khi làm việc, chứ không nguyện nằm bệnh trên giường”. Ngài ấy cũng đem câu cách ngôn của Gia Cát Lượng, sửa đổi một chữ thành: “Cúc cung tận tụy, đến chết không thôi!

Tháng 6 năm 28, linh mục Lôi lần thứ 2 theo lời mời của Tưởng Giới Thạch bay tới phụ đô Trùng Khánh, một mặt báo cáo công việc của Đoàn mấy tháng gần đây ở tiền tuyến, mặt khác cũng xin chỉ thị về phương châm làm việc về sau. Một tháng sau, đầu tháng 7, linh mục Lôi bắt xe tới Tây An; sau đó chuyển qua đi xe lửa tới Mãnh Trì, Hà Nam; sau đó bắt buộc phải đi bộ trèo đèo lội suối, mới về đến được núi Trung Điều, nơi bổn Đoàn đang công tác. Khi ngài ấy sắp tới nơi đóng quân của chúng tôi, không ít tu sĩ và đoàn viên đều đến bên ngoài thôn chào đón ngài ấy. Xa xa nhìn thấy ngài ấy áo dòng phấp phới, đầu trần chân đất, trèo đèo lội suối, bước chân như bay tiến về phía trước; có đoàn viên nhìn thấy đã cảm động rơi nước mắt.

Sau khi linh mục Lôi quay lại, ngài ấy cũng chẳng màng nghỉ ngơi, lập tức triệu tập cuộc họp công tác nhóm; theo như chỉ thị của Ủy viên trưởng, bắt đầu nghiên cứu soạn thảo kế hoạch mở rộng công tác, và sắp xếp lại nhân sự.

Sau khi bận rộn mấy ngày, sau khi kế hoạch công tác và việc bố trí nhân sự gần như ổn định, thì có hai mươi mấy vị giáo dân chân thành, muốn xin linh mục Lôi hướng dẫn bọn họ “Tĩnh tâm ba ngày”. Linh mục Lôi không biết mệt mỏi lập tức đã đáp ứng, và tự nhận giảng thuyết tĩnh tâm.

Có người hình dung linh mục Lôi đối với bản thân giống như “Một cây nến đốt cháy hai đầu”, hình dung như thế quả thực không sai. Tinh lực của ngài ấy sắp cạn kiệt rồi, thể lực cũng khó mà chống đỡ nổi. Khi giảng bài thứ 3 vào chiều này thứ 2 của khóa tĩnh tâm, ngài ấy đột nhiên sắc mặt trắng bợt, cổ họng khàn đặc, đầu nặng chân mềm, tựa như muốn ngất xỉu. Ngài ấy hoa tay múa chân lệnh cho tôi thay ngài ấy tiếp tục dẫn dắt nhóm tĩnh tâm, còn bản thân ngài ấy được người dìu đỡ tới bệnh viện dã chiến của bổn Đoàn.

Viện trưởng bệnh viện, Y quan Kiều là vị giáo hữu vốn dĩ rất ngưỡng mộ linh mục Lôi. Sau khi kiểm tra kĩ lưỡng bệnh trạng của linh mục Lôi, liền cười nói với chúng tôi: “Linh mục Lôi không có trọng bệnh, chỉ là cảm mạo mà thôi. Tình trạng bệnh của ngài ấy ra như nghiêm trọng như vậy, là do dinh dưỡng không đủ, thể lực lại kiệt kệ quá mức, nghỉ ngơi mấy ngày thì sẽ khỏe lại thôi!”. Mọi người chúng tôi nghe xong, mới an tâm.

SỨC “ĂN” KINH NGƯỜI!

Sau khi đã thăm khám bệnh tình của linh mục Lôi, Y quan Kiều đã chuẩn đoán và kê đơn thuốc, liền dặn dò hộ sĩ phải để linh mục Lôi nghỉ ngơi thật tốt, và ăn uống cũng tốt hơn chút, tốt nhất là cho ngài ấy ăn thịt — linh mục Lôi thường ngày không dùng thuốc lá, rượu, thịt.

Đương thời, người phụ trách ở phòng sự vụ của bệnh viện là những nữ tu dòng Têrêsa do chính tay linh mục Lôi sáng lập. Các chị ấy chẳng đợi viện trưởng dặn dò, tự nhiên cũng sẽ biết phải chăm sóc thật tốt cho linh mục Lôi.

Sau năm ngày, bệnh tình của linh mục Lôi không chỉ khỏi hẳn, mà tinh thần cũng gia tăng gấp trăm, so với lúc trước càng là dồi dào hơn. Thư ký trưởng Quách Hồng Quân nhìn thấy linh mục Lôi khỏe nhanh như thế, liền không ngừng tán dương y thuật cao minh của viện trưởng Kiều. Y quan Kiều khiêm tốn nói: thật ra mà nói, không phải do thuốc mạnh, mà là do sức ăn kinh người! linh mục Lôi cũng nói vui: “Chỉ nhờ hai trái trứng mỗi buổi sáng, tinh thần của tôi đã nhanh chóng trở dậy rồi!

Mọi người chúng tôi nghe xong những lời vui vẻ của linh mục Lôi, ai nấy cũng đều nhoẻn miệng cười. Nhưng 2 nữ tu dòng dòng Têrêsa ở bên cạnh không chỉ cũng nhoẻn miệng cười đặc biệt vui vẻ, mà còn thì thầm với nhau, dường như có điều gì bí mật, dáng vẻ muốn nói nhưng rồi lại thôi. Tôi vì hiếu kỳ liền quay sang hỏi bọn họ: Linh mục Lôi đã uống thuốc gì mà hiệu quả như thế? Hai người họ nói nhỏ, chúng tôi theo lời dặn dò của viện trưởng Kiều, cho linh mục Lôi ăn thịt, nhưng sợ ngài ấy cự tuyệt, liền đem thịt băm nhuyễn thành nhân bánh, mỗi tối đều cho ngài ấy ăn sủi cảo. Vì trong nhân có rau xanh và bánh quẩy,… ngài ấy không có phát hiện trong đó có thịt, chỉ cảm thấy rất thơm. Ngài ấy có hỏi qua: Tại sao lại ngon như vậy? Chúng tôi chỉ nói đem “Dầu béo” thêm vào nhiều một chút.

Đây là bí mật trước sau không để cho linh mục Lôi biết. Nhưng, cách làm này có thể khiến linh mục Lôi sớm ngày hồi phục sức khỏe, thì chẳng khác nào là một loại lương dược vậy, cũng là điều không chê trách được vậy.

\

GIẶC OA KHÔNG CHẾT, THỀ KHÔNG TRỞ VỀ                         

Từ lúc quân Nhật ở tỉnh Sơn Tây khai thông tuyến đường Đồng Bồ, từ Đại Đồng đến Bồ Châu, và đã chiếm cứ “Những tuyến đường” và “Những khu vực” trọng yếu trong toàn tỉnh, các quân đoàn của ta đều nhận lệnh tiến vào những khu vực vùng núi kề cận những cứ điểm của quân địch, để kiềm chế những hành động của địch và chờ thời cơ gia tăng vây diệt. Dãy núi Trung Điều vây quanh ba mặt của Nam Tấn, chính là một căn cứ địa rất lớn mà quân ta tập kết. Bộ đội đồn trú ở đây, con số cố định nhất cũng lên đến trăm ngàn trở đi. Quân đoàn 3 mà đội cứu thương chúng tôi đang tòng quân cũng ở đây kháng chiến. Đoàn giám sát mới thành lập vì yêu cầu của tổng tư lệnh Tăng Vạn Trung, tạm thời cũng ở núi Trung Điều triển khai công việc.

Núi Trung Điều vì đột nhiên gia tăng rất nhiều bộ đội, các bến phà qua sông Hoàng Hà đi tới đại hậu phương lập tức rộn ràng hẳn. Một bến phà vô danh gần chỗ Bộ chỉ huy Đoàn giám sát chúng tôi đóng quân cả ngày cũng đều đông nghịt người, khiến giao thông tắc nghẽn nghiêm trọng. Khe núi từ bến phà thông đến Bộ tư lệnh, vốn dĩ chỉ là một con đường mòn quanh co, hiện tại do người ta lại tấp nập, dần dần đã trở thành một con đường lớn, người đi đường, bộ đội đồn trú, đi đi lại lại dồn dập liên hồi.

Linh mục Lôi là người rất biết “Nắm bắt cơ hội”, ngài ấy nhìn thâý người đi đường đông như vậy, thật sự là một mảnh đất rất tốt để làm việc. Ngài ấy trước tiên lệnh cho cục sự nghiệp hành chánh và đội công tác dọc đường thiết lập những “Trạm chiêu đãi trà nước” và dựng lên rất nhiều “Bảng chỉ đường”, khiến người đi đường thu được không ít sự tiện lợi. Theo đó, ngài ấy vì để thông truyền cho dân chúng ý thức ái quốc, kiên định với quyết tâm quân dân kháng chiến đến cùng, ngài ấy lệnh cho Cục đào tạo chính trị và Đội tuyên truyền của Đoàn giám sát, dọc đường vẽ và dựng lên rất nhiều những biểu ngữ lớn, có cái còn đạt đến một trượng có dư.

Thứ cho người khác ấn tượng sâu sắc nhất và khó quên nhất là ở bờ bắc bến phà qua Hoàng Hà, cũng chính là cửa ngõ của núi Trung Điều, ngài ấy đã lệnh cho chúng tôi xây dựng một đài kỷ niệm bằng gỗ đơn giản mà cao, trên mặt có ghi tám chữ lớn “Giặc Oa chưa diệt, thề không trở về”. Người qua đường nhìn thấy, không chỉ cảm thán “Sự chính nghĩa nhiệt liệt” của người dựng đài, mà ý thức kháng chiến của bản thân cũng vì đó mà gia tăng không ít.

Giặc Oa chưa diệt, thề không trở về”, lời này vốn dĩ là để biểu đạt cái dũng chí “Vì nghĩa hi sinh”, không ngờ tới linh mục Lôi lại trở thành thứ “Cầu đức nhân đắc đức nhân”, sau khi giặc Oa ở núi Trung điều, Sơn Tây tuyệt tích, ngài ấy cũng đã qua đời, không cùng với chúng tôi “trở về” Chân Phúc Viện. Dưới cái nhìn của người đời, đây thực sự là một nuối tiếc rất lớn vậy.

MƯA RÀO TRONG CƠN ĐẠI HẠN

Giữa tháng 9 năm 28, sau khi khỏi bệnh, linh mục Lôi đã mở một cuộc họp bí mật các cán bộ cấp cao; trong cuộc họp, ngài ấy đã tuyên bố cá nhân ngài ấy muốn dắt một anh em trong đội, trước tiên sẽ đi vào trong núi Thái Hành, tới khu vực phủ hạt tỉnh Hà Bắc triển khai công việc. Ngài ấy nói, “Đây là chỉ đạo trực tiếp của Ủy viên trưởng trong lần gặp gần nhất. Ủy viên trưởng hi vọng nhờ một chút liên hệ của tôi trước đây với dân chúng Thiên Tân, đặc biệt là sức ảnh hưởng của “Báo Ích Thế” ở Hoa Bắc, sẽ giúp đỡ ổn định lòng tin “Kháng chiến đến cùng” của dân chúng trong vùng bị địch chiếm đón, đồng thời gia tăng hi vọng “Lần nữa nhìn thấy ánh sáng ngày mới”. Ngài ấy còn nói, “Chỉ cần họ nghe nói tôi đã đến núi Thái Hành, họ liên sẽ vững vàng tin tưởng, và tinh thần sẽ phấn chân trở lại”.

Linh mục Lôi tiếp tục nói, “Đây đương nhiên là những lời tán dương quá khoa trương mà Uỷ viên trưởng dành cho tôi; nhưng tôi là người cần phải tuân theo chỉ thị của ngài ấy, trước tiên qua núi Thái Hành xem thế nào. Nếu hoàn cảnh cho phép, bộ chỉ huy đoàn của chúng ta cũng sẽ dịch chuyển qua bên đó, đem trọng tâm công việc đặt tại núi Thái Hành. Nhưng trước mắt bộ chỉ huy Đoàn vẫn lưu lại đây, khi tôi không ở đây, công việc của đoàn đều nhờ Thư ký trưởng Quách Hồng Quân đại diện xử lý”.

Linh mục Lôi nói tới đây, chúng tôi đã cắt lời của ngài ấy. Một người nào đó nói, linh mục Lôi, ngài giống như tia sáng trước hừng đông vậy, ngài đem đến cho dân chúng đang sống trong những ngày u ám dưới gót giày sắt của quân Nhật cái vinh quang “Kháng chiến thắng lợi” sắp tới. Người khác lại nói, linh mục Lôi, ngài càng giống hơn cầu vồng trong cơn đại hạn, đem đến cho dân chúng Hoa Bắc đang khát vọng tự do niềm hy vọng “Trời sẽ đổ mưa rào”. Người này một lời, người kia một lời, khiến hội trường rộn ràng tiếng cười. Vui vẻ khoảng năm phút, linh mục Lôi mời gọi mọi người yên tĩnh trở lại, tiếp tục cuộc họp.

Đương thời, Uỷ viên trưởng Tưởng Giới Thạch nói linh mục Lôi có sức ảnh hưởng tương đối lớn đối với dân chúng Hoa Bắc, lời nói này chẳng phải là lời nói cho có, ở đây có hai câu chuyện nhỏ có thể làm chứng cho nhận định trên.

Câu chuyện thứ nhất là ở núi Thái Hành, quân ta đã bắt được một tên Hán gian, tên gọi Vương Đắc Quan. Anh ta làm gián điệp cho quân Nhật, anh ta đã khai nhận, ngoài việc do thám tình hình quân sự, anh ta còn có nhiệm vụ khác là ám sát Lôi Minh Viễn. Lãnh đạo quân Nhật ở Bắc Bình đã dùng một số tiền khá lớn để mua chuộc anh ta ám sát linh mục Lôi.

Trước khi Cục tư pháp quân sự hành quyết tên Hán gian này, thì đã đem việc này nói cho linh mục Lôi, và dò hỏi ý kiến của ngài ấy. Linh mục Lôi nói, việc này liên quan đến quốc pháp, cần phải theo luật mà xử lý, nếu vì án này có liên quan đến tôi, mà muốn tôi bày tỏ ý kiến, tôi hy vọng có thể xử trí khoan hồng.

Việc thứ hai là sau khi linh mục Lôi tới núi Thái Hành, linh mục Lôi Trấn Viễn ở trong vùng địch chiếm đóng, đã mang theo một tu sĩ, chẳng quản gian khó, trèo đèo lội suối, băng qua các phòng tuyến của quân địch, đến núi Thái Hành hội kiến linh mục Lôi. Linh mục Trấn Viễn nói với chúng tôi, tin tức linh mục Lôi đã đến núi Thái Hành rất nhanh thì đã truyền tới Giáo phận An Quốc, giáo dân nghe tin thì đều vui mừng ngây ngất. Bạn hữu ở Bình Tân cũng viết thư dùng ám hiệu để nói với tôi, bọn họ cũng đã nghe thấy tin tức tốt đẹp này, tinh thần phấn chấn hơn rất nhiều vậy.

CHÂN THÀNH ĐỘNG LÒNG NGƯỜI

Linh mục Lôi sinh thời có một câu phương ngôn xử thế của cá nhân ngài ấy, ngài ấy nói: “Tôi cả đời đối nhân xử thế, duy chỉ một chữ “Thành”. Phong cách đối nhân xử thế chân thành của ngài ấy đối với người bình thường mà nói, là đơn giản tới độ “Ngu xuẩn”. Hơn 60 năm trước, trong phạm vi của Giáo hội Hoa Bắc có lưu truyền một lời nói hài hước như thế này: Trong Giáo hội Trung Quốc ( chí ít là tỉnh Hà Bắc) có một rưỡi người điên, điên toàn phần là Lôi Minh Viễn, còn điên một nửa là Giám mục Ôn Quế Bân. Nhưng, nếu Trung Quốc có thể có ba người điên như vậy, sứ vụ của Giáo hội ắt sẽ cải thiện hơn rất nhiều.

Đương nhiên, đó chỉ là một lời nói hài hước, nhưng sự tình mà lời nói hài hước này phản ánh lại là lời ngàn vạn chính xác, tức là linh mục Lôi đích thực là người thật thà đến “Ngu xuẩn”. Những câu chuyện mà “Mọi người cho là ngu xuẩn” lúc sinh thời của ngài ấy nhiều không kể xiết. Mỗi người quen biết ngài ấy đều có thể kể ra hàng tá chuyện.

Tục ngữ nước ta (Trung Quốc) có một câu: “Tinh thành sở chí, kim thạch vi khai” (nghĩa là tấm lòng thật sự chân thành, thì vàng đá cũng sẽ vỡ tan; nếu bạn đặt trái tim, ý nguyện của bạn vào việc gì đó, bạn có thể phá vỡ đá sỏi, cũng như mọi kim loại, tức khó khăn); chí thành có thể cảm động trời xanh, cũng có thể cảm động lòng người. Ở đây tường thuật một câu chuyện “Chí thành cảm động lòng người” của ngài ấy.

Mùa thu năm 28, linh mục Lôi quyết định tuân theo chỉ thị của Uỷ viên trưởng Tưởng Giới Thạch, trước tiên dẫn một số thành viên Đoàn giám sát tới núi Thái Hành làm việc. Vậy nên, Ngài ấy một mặt sắp xếp các công việc của bổn đoàn, một mặt cũng đi đến đội cứu thương và bệnh viện dã chiến từ biệt chúng tu sĩ và bạn hữu.

Tướng quân Đoàn Ngọc Nguyên, Quân đoàn trưởng Quân đoàn 3 là một người chịu sự cảm hoá sâu sắc của linh mục Lôi. Mối liên hệ giữa ngài ấy và linh mục Lôi hiện nay đã vượt ra khỏi phạm vi công việc, nhảy vọt vào mức độ “Bằng hữu”, và đi tới cảnh giới “Tâm đầu ý hợp”. Khi linh mục Lôi đến Bộ chỉ huy Quân đoàn để từ biệt ngài ấy, ngài ấy cho rằng như thế là không đủ, liền thể hiện ý muốn của bản thân, nhất định phải đích thân đưa tiễn linh mục Lôi một đoạn đường. Sau bữa cơm trưa ngày 16 tháng 10, linh mục Lôi cùng hơn 30 người nhất loạt xách hành trang lên đường. Người đưa tiễn không chỉ có thành viên Đoàn giám sát, mà còn có không ít quan quân của Quân đoàn 3, trong có có Quân đoàn trưởng Đường và Tham mưu trưởng của ngài ấy.

Trong “Những tiếng chào từ biệt, những lời chúc sức khoẻ và thành công”, linh mục Lôi rưng rưng nước mắt bước ra khỏi nơi Bộ chỉ huy Đoàn giám sát đóng quân. Quân đoàn trưởng Đường khăng khăng muốn cùng đi với linh mục Lôi thêm một đoạn nữa, linh mục Lôi cảm thấy thật khó để từ khước, nên chỉ đành đồng ý sánh bước. Vì cùng đi với Quân đoàn trưởng, nên tôi cũng đi theo một đoạn đường.

Linh mục Lôi và Quân đoàn trưởng Đường sóng vai sánh bước, vừa đi vừa trò chuyện say sưa về những chuyện đã qua, cũng như những chuyện có thể xảy ra trong tương lai; nhưng chủ đề thì luôn luôn không vượt ra ngoài công việc kháng chiến và cứu thương. Đi khoảng độ hai ba cây số, linh mục Lôi dừng lại, nắm lấy tay tướng quân Đường, kìm giữ nước mắt cáo từ ngài ấy. Tướng quân Đường từ eo rút ra một miếng “Ngọc thời Hán” mà ngài ấy đã luôn đem bên mình hơn 20 năm tặng cho linh mục Lôi, và nói: “Đây là thứ mà tôi yêu quý nhất, nó đại diện cho con tim của tôi, nguyện cho hai trái tim của tôi và ngài luôn luôn ở cùng nhau”. Những giọt lệ trong mắt linh mục Lôi cũng khống chế không nổi nữa, mà tuôn ra như mưa vậy. Hai người nắm tay nhau lần cuối, cầu chúc cho nhau sớm ngày tái ngộ. Nhưng hai người bọn họ đã chẳng có cơ hội tái ngộ nhau ở thế giới này, cuộc đời này đã vĩnh biệt từ đó!

Tám tháng sau, linh mục Lôi qua đời. Sau khi Quân đoàn trưởng Đường nhận tin thì đã bật khóc nghẹn ngào. Ngài ấy ngoài việc triệu tập thuộc cấp làm lễ truy điệu linh mục Lôi, còn viết một đoạn điếu văn hàng ngàn chữ, in thành một tập sách nhỏ phân phát cho quan binh cũng như chúng bạn hữu. Trong bài viết mà văn tình tràn trề này, ngài ấy lần lượt kể những kỷ niệm cũng như những ấn tượng đối với linh mục Lôi, từ lần đầu tiên gặp gỡ cho tới lần từ biệt sau cùng mà ngài ấy tặng “Miếng ngọc thời Hán”. Đại ý là nói: “Hai năm trước, tôi lần đầu tiên nhìn thấy linh mục Lôi: đầu trọc, chân trần, quần áo giản dị, vóc dáng thấp thấp, thân hình gầy gầy,……rất giống một người ăn xin cao cấp……. Tôi lúc đó cũng đang mang thành kiến rất sâu đối với người Công giáo, tôi cho rằng “Người Công giáo không yêu nước”, nên tôi rất hoài nghi dụng tâm mà linh mục Lôi tự động tìm tôi xin thành lập đội cứu thương……(ngài ấy tường thuật những thành tích mà linh mục Lôi đã cứu trợ thương binh trong các trận chiến)…… sau này, tôi gọi ông ấy là từ phụ của quân đoàn 3 chúng tôi”.

Ở đây cũng nói thêm rằng, ngày đó, sau khi đưa tiễn linh mục Lôi, tôi cùng với Quân đoàn trưởng và Tham mưu trưởng trở về Ban chỉ huy quân đoàn. Trên đường trở về, chúng tôi chỉ nói đến một chủ đề duy nhất, chính là sự “Chân thành” của linh mục Lôi. Tham mưu trưởng nói với tôi, nước mắt của Đường tướng quân không phải là thứ dễ rơi như vậy, tôi theo ông ấy nhiều năm, cũng chỉ thấy qua 2 lần ông ấy khóc: một lần là năm ngoái, một lần là hôm nay, cả hai lần đều là đối với linh mục Lôi mà khóc. Là sự chân thành của linh mục Lôi đã chinh phục con tim của ngài ấy. Nói đoạn, ngài ấy quay qua hỏi Quân đoàn trưởng, ngài cho rằng tôi nói đúng không? Quân đoàn trưởng Đường chỉ cười mà không đáp.

Việc này sau sẽ bàn tới, ở đây xin lấy “Sự anh dũng tráng liệt” của Quân đoàn trưởng Đường Ngọc Nguyên để kết thúc đoạn văn này.

Một năm rưỡi sau, chính là giữa tháng 5 năm 30 Dân Quốc, quân Nhật theo bốn đường tấn công vào núi Trung Điều, bên trong có Hán gian phá hoại, bên cạnh còn có “Bát lộ quân” cản đường, nên hàng vạn Quốc Quân chưa đến ba ngày, toàn bộ đều tan rã. Đoàn giám sát và đội cứu thương cũng theo đó tạm thời giải thể. Trong trận chiến này, 4 tu sĩ của bổn hội và 2 vị nữ tu dòng Têrêsa cũng anh dũng hi sinh.

Lại nói đến Tướng quân Đường Ngọc Nguyên, ngài ấy đã chiến đấu với quân địch cho đến khi chỉ còn lại hơn 10 vệ binh, liền kêu đến trước mặt những binh sĩ cần vụ, là những giáo dân do linh mục Lôi giới thiệu, nói: tôi cả đời bái phục nhất là linh mục Lôi Minh Viễn, ngài ấy cũng đã hi sinh vì nước mà đi trước tôi. Tôi quyết không tham sống sợ chết, làm tù binh của địch, nói đoạn, liền rút súng tự vẫn. Việc này là do một binh sĩ cần vụ nọ, sau khi Tướng quân Đường tự vẫn, đã đột phá vòng vây của quân Nhật, tìm đến tôi và nói cho tôi việc này.

BẢO HỔ LỘT DA

Cổ nhân nước ta khi hình dung một áng văn chương hoặc một sự việc động lòng người, thì thường sử dụng chữ “Kinh thiên động địa, quỷ khóc thần sầu” để tỏ bày. Sự chân thành của linh mục Lôi có thể động thiên, cũng có thể cảm lòng người, đó là thứ không cần phải nói; nhưng có thể cảm động ma quỷ hay không, cần phải xem thực tế sau này, mới có thể có được đáp án chính xác.

Giữa tháng mười năm 28, linh mục Lôi dẫn một bộ phận Đoàn giám sát rời khỏi núi Trung Điều, tiến vào núi Thái Hành, nơi đặt chính phủ của tỉnh Hồ Bắc. Dọc đường có đi qua Dương Thành và Tấn Thành của đất Đông Nam Tấn, rất gần với căn cứ địa của Trung Cộng. Ngài ấy phát hiện “Sự hợp tác giữa Quốc Cộng” ở nơi đây đã biến chất; không phải Quốc quân không dung chứa Cộng quân, mà là Cộng quân không yêu nước.

Trong tưởng tượng “Ngây ngô” của linh mục Lôi, Đảng Cộng Sản Trung Quốc và đảng cộng sản quốc tế không giống nhau, mọi người đều là “Người Trung Quốc” mà! Dưới đại kỳ kháng chiến cứu quốc, có thể và cần phải bỏ đi bất đồng chính kiến mà hợp tác vô hạn với nhau. Mấy tháng trước, ngài ấy đã thúc đẩy sự hợp tác giữa Long Vân và Trung Ương; hiện tại ngài ấy muốn tìm Chu Đức trò chuyện, vì giữa tháng 3 năm đó, Chu Đức đã tham gia “Đại hội cầu nguyện cho kháng chiến thắng lợi” do Giám mục Thành tổ chức ở Hồng Động; ông ấy lại còn quyên góp cả trăm đồng, là một số tiền có giá trị rất lớn vào lúc bấy giờ; sau đại hội, ông ta còn nắm tay linh mục Lôi, bảo chứng cho sự hợp tác giữa Trung Cộng và Giáo Hội sau này nữa !?

Linh mục Lôi luôn ôm hy vọng và thái độ lạc quan này, dù cho ở Dương Thành và Tấn Thành đã nghe biết không ít việc xấu liên quan đến việc Trung Cộng phá hoại “Sự hợp tác kháng chiến”, nhưng ngài ấy vẫn không nguyện trực tiếp bóc tách “Bí mật công khai” đầy đáng tiếc này. Ngài ấy ở Tấn Thành vẫn nhận lời mời của các cơ quan trường học, tổ chức không ít những lần diễn thuyết, nhưng ngài ấy cũng chỉ lấy “Xung đột” làm chủ đề, bên cạnh đó cũng nói rõ: nếu không hợp tác thì đều không có lợi cho cả hai bên. Trong những người đến nghe diễn thuyết có không ít người là Đảng viên Đảng Cộng Sản; sau khi nghe linh mục Lôi diễn thuyết, bọn họ có cảm tưởng như thế nào, thì chỉ có trời mới biết.

Dân chúng ở núi Thái Hành, đời sống vốn đã cực khổ; mỗi năm khi đông về luôn luôn thiếu những thực phẩm hằng ngày, huống hồ đây lại là thời kỳ kháng chiến! Linh mục Lôi vừa đến núi Thái Hành ở khu vực biên giới của Sơn Tây-Hà Bắc-Hà Nam, thì phát hiện rất nhiều nạn dân bị đói rét đầy đoạ; ngài ấy lập tức trước tiên phát một đồng cho những hộ gia đình nghèo khổ, để cứu trợ khẩn cấp. Sau này, ngài ấy cảm thấy lợi ích thực tế của việc cứu trợ bằng hiện kim thật không bằng phân phát lương thực. Theo như dân chúng bản địa nói, lương thực trong khu vực Bát Lộ Quân chiến cứ rất phong phú, giá cả lại còn rẻ nữa. Linh mục Lôi liền phái một vị tu sĩ dắt theo mấy thành viên Đoàn giám sát tới những vùng phụ cận nơi cộng quân đồn trú mua lương thực. Cộng quân ở địa phương không những không ngăn trở, mà còn hiệp trợ tìm kiếm và thu mua, Đoàn giám sát chúng tôi đã mua được không ít bột mì, và thuê mấy con ngựa để thồ đống lương thực này. Chúng tôi ai nấy đều mặt mày hớn hở quay trở về; nhưng, khi đi đến nơi hai quân Quốc Cộng phối hợp phòng ngự, thì nhân viên của khu vực Cộng quân cầm công văn chính phủ huyện không cho phép đem lương thực ra ngoài, hơn nữa giá trị lương thực cũng không bồi hoàn, mà chỉ thả cho người đi mà thôi.

Người đi mua lương thực tay không trở về, khiến linh mục Lôi vô cùng ngạc nhiên. Ngài ấy hồi tưởng lại những cộng quân đã gặp mặt hơn một năm trước, Tất cả bọn họ đều quân kỷ chỉnh tề, mặt mày rạng rỡ, lại còn cảm thấy những lời tốt đẹp mà Chu Đức bảo chứng cho sự hợp tác với Giáo hội vẫn còn vang vẳng bên tai, ngay cả mùi vị vẫn còn có thể ngửi thấy; liền viết hai phong thư, một gửi cho Huyện trưởng huyện Lăng Xuyên, một gửi cho Chu Đức, kêu gọi bọn họ điều tra “Vụ khấu lương này”, và cũng kêu gọi bọn họ hiệp trợ lấy lại công bằng. Sau khi hai bức thư này chuyển đi, bọn họ ngay cả biên lai cũng không cho, chứ đừng nói đến thư hồi âm!

CÔNG VIỆC CỨU TẾ KINH NGƯỜI

Linh mục Lôi từ núi Trung Điều đi qua núi Thái Hành, khi đi qua khu vực Dương Thành, Tấn Thành, chúng thân sĩ và các giới quân chính ở đây không chỉ mời ngài ấy diễn thuyết, mà còn muốn ngài ấy phái người đến thành lập các cứ điểm công tác. Sau khi ngài ấy suy nghĩ, cảm thấy dân số ở đây đông đúc, giao thông cũng thuận tiện, lại cách không xa tiền tuyến, hơn nữa đây lại là đất hội tụ của các nạn dân Hồ Nam Hồ Bắc, thực sự là mảnh đất thuận lợi để Đoàn giám sát làm việc. Thế là ngài ấy cấp tốc đánh điện cho Bộ chỉ huy Đoàn giám sát ở núi Trung Điều, muốn chúng tôi nhanh chóng di chuyển đến Tấn Thành. Sau khi chúng tôi tiếp nhận mệnh lệnh của linh mục Lôi, liền đem công việc ở núi Trung Điều giao lại cho một bộ phận thành viên Đoàn giám sát tiếp tục thực hiện, còn bộ chỉ huy và các thành viên còn lại lập tức di chuyển về phía đông. Đi đường núi một tuần, thế là chúng tôi đã nhanh chóng tới Tấn Thành trước Lễ Giáng Sinh năm 28, và sau tiết Nguyên Tiêu thì lập tức triển khai công việc quy mô lớn. Các công việc tuyên truyền văn hoá khác tạm thời gác lại không bàn đến, ở đây chỉ nói đến công việc cứu trợ kinh người mà thôi.

 Một dải Dương Thành, Tấn Thành là khu vực Đông Tấn sầm uất trù phú. Nạn dân từ Hà Bắc và Hà Nam đến đây mưu sinh rất đông. Chúng tôi cảm thấy việc cứu tế những người không nguyện làm thân nô vong quốc này là công việc vô cùng cấp bách, nên lập tức thành lập nhiều “Nơi thu nhận nạn dân lâm thời” ở Dương Thành. Dương Thành là đất sản xuất than, với nghề đốt lò ăn nên làm ra. Cư dân có lợi thế mượn nước đẩy thuyền, gần quan được hưởng lộc, nên nhà cửa ở đây đều rất rộng rãi, có mấy gia đình giàu có, nhà cửa phòng ốc to lớn như cơ quan trường học vậy. Bọn họ rất vui mừng hoan nghênh chúng tôi thu nhận nạn dân đến ở nhà họ, và hoàn toàn miễn phí cung ứng nhà ở. Từ tháng giêng tới tháng sáu, trong nửa năm, chúng tôi luôn thường thu nhận hơn hai ngàn nạn dân đến rồi đi. Ngoài việc cung ứng nơi ăn chốn ở, chúng tôi còn đặt mua máy may tiện lợi, máy đánh bông, máy dệt, dụng cụ làm giày,…… để nạn dân có cơ hội làm việc. Lợi nhuận thu được cũng đem chia cho bọn họ làm lộ phí, để họ mưu sinh hoặc trở về nguyên quán.

Đáng tiếc hảo sự đa nan, tiệc vui chóng tàn, tháng 6 năm 29, Dương Thành Tấn Thành lần lượt rơi vào tay địch. Trước khi chúng tôi giải tán, không thể không nhẫn đau thương chấm dứt công việc cứu tế, khiến bọn họ mất đi “Chốn dung thân”, và lần nữa trở lại sống đời lưu vong.

CỘNG SẢN ĐẢNG KHÔNG ĐÁNG KẾT GIAO

Cuối tháng giêng năm 28, khi Đoàn giám sát đang triển khai công việc cứu tế và sự nghiệp văn hoá quy mô lớn ở đất Đông Nam Tấn, linh mục Lôi ở núi Thái Hành, thuộc Diên Thôn-Lâm Huyện-Hà Nam, cũng đã đưa ra kế hoạch công việc, và bắt đầu triển khai công tác. Vì nhân lực không đủ, nên ngài ấy đã phái người tới Tấn Thành, muốn Bộ chỉ huy Đoàn giám sát phái người đi trước, và chỉ đích danh 18 vị tu sĩ lập tức xuất phát, trong số này có tu sĩ Ân Lễ, Phó Viện trưởng Chân Phúc Viện theo quân, vì thế ngài ấy đương nhiên trở thành người dẫn đoàn lên đường, đi theo người đưa thư mà linh mục Lôi phái đến. Trước khi họ xuất phát, thì giữa họ đã xảy ra một tranh chấp rất lớn về vấn đề lộ trình đường đi. Kỳ thực, vấn đề lộ trình đường đi căn bản là chuyện nhỏ nhặt, nhưng có khi nó cũng có thể phát sinh vấn đề cực đại, không thể không khiến mọi người phải vắt đầu suy nghĩ, và cẩn thận chọn lựa. Trong số 18 tu sĩ được gọi tới núi Thái Hành, có một tu sĩ thâm niên lớn tuổi, anh ta chủ trương đi đường gần, băng qua những vùng đất Cộng sản đang nắm giữ, để có thể sớm gặp được linh mục Lôi trước Tết Nguyên Đán. Mấy vị trưởng cục của Bộ chỉ huy Đoàn, vì biết rõ sự bằng mặt mà không bằng lòng của Cộng quân đối với Quốc quân trên nhiều phương diện, nên đã có xung đột nhỏ, và ra sức khuyên ngăn bọn họ lấy an toàn làm đầu mà né những con đường phải đi qua khu vực Cộng quân.

Nhưng vị tu sĩ thâm niên kia lại cố chấp muốn đi đường gần. Lý do mà anh ta đưa ra là, ngoài đường gần và thuận tiện, còn có “Hoà khí tiếp đón người” của Cộng quân. Anh ta nói, không lâu mấy ngày trước, vì công việc liên quan, nên đã đi lại trong vùng quân Cộng, giữa rừng núi lạc mất phương hướng, Cộng quân đã tiếp đón anh ta vô cùng thân thiết, lại còn phái người làm người dẫn đường cho anh ta, dẫn anh ta về tới tận Bộ chỉ huy Đoàn giám sát. Mấy vị quan chức cao cấp của Đoàn giám sát nói với anh ta: “Trước khác nay khác! Sông có khúc, người có lúc mà!” Trước mắt, Cộng quân đã công khai phản đối trung ương, tấn công Quốc quân, vậy nên không thể tín nhiệm “Khuôn mặt tươi cười” của quân Cộng. Ngoài ra, bọn họ còn nói với anh ta, Chúa Giêsu mặc dù khuyên chúng ta đối đãi với người phải “Đơn sơ như bồ câu”; nhưng ngài cũng muốn chúng ta phải “Khôn như rắn”. Nhưng vị tu sĩ kia luôn cảm thấy cái nhìn của bản thân không sai, nên vẫn “Cố chấp lựa chọn điều bản thân cho là đúng”. Lúc này, tu sĩ Phó Viện trưởng Ân Lễ dùng thân phận “Người dẫn đội” của mình quyết định: “Chúng ta chấp nhận lời khuyến cáo của Bộ chỉ huy Đoàn giám sát, tránh các con đường đi qua vùng Cộng quân mà đến núi Thái Hành”. Mọi người lúc này mới yên tâm, tiễn bọn họ lên đường tiến về phía đông.

Sau ba ngày, tôi đột nhiên tiếp nhận một phong thư gửi đến từ khu vực phụ cận huyện Lăng Xuyên, trong vùng Cộng quân nắm giữ. Tôi mở ra xem, thì lập tức khiến tôi vô cùng kinh ngạc. Bức thư vốn là do tu sĩ Duy Lộc, một trong những người hôm trước đã đi qua núi Thái Hành viết. Anh ta dùng tờ giấy rách viết mấy chữ rất đơn giản: “Sáu người chúng tôi hiện tại không tự do, và cũng đã thưởng nếm tới mùi vị của ‘Thường vui vẻ”. Tôi hiểu ý nghĩa của hai câu này, tôi cảm thấy sự nghiêm trọng của sự việc, một mặt tôi thông báo cho người đại diện chủ nhiệm Quách, một mặt thì lập tức phái mấy vị đoàn viên bản địa tới huyện Lăng Xuyên điều tra và thăm dò chân tướng sự việc.

Ở một diễn biến khác, chủ nhiệm Quách cũng đã lập tức mở cuộc họp với các cục trưởng và các đại đội trưởng còn lại, nghiên cứu cớ sự của những khả năng phát sinh và thương lượng bàn thảo đối sách. Mọi người đã thảo luận rất lâu, cũng chỉ biết nói lành ít dữ nhiều, cũng nói không ra được cớ sự vì sao. Đêm hôm ấy, mọi người đều giống như kiến nằm trên lửa, liên tục trở mình lăn qua lăn lại, mãi mà chẳng thể ngủ yên. Ngày hôm sau, những người đi Lăng Xuyên thám thính tình hình đã trở lại, và mang về những tin xấu khiến mọi người thất kinh: có 12 tu sĩ khoẻ mạnh đã bị Cộng quân xử tử, 6 vị khác yếu hơn đang bị giam giữ trong nhà ngục của Cộng quân! Sau khi tin xấu truyền tới, chúng tôi lập tức xin linh mục Dương Học Triết cử hành lễ truy điệu cho những người đã chết. Tất cả đoàn viên ở Tấn Thành đều mang con tim bi thương vỡ nát tham gia Thánh Lễ này.

Sau Thánh Lễ, tôi lập tức phái một tu sĩ trẻ khoẻ cường tráng, tìm một người dẫn đường, ngày đêm dùng cách thức nhanh nhất đến báo cáo cho linh mục Lôi tin xấu này. Sau này nghe nói, khi linh mục Lôi nhận được tin vừa kinh hoàng vừa bi ai này, thì biểu cảm của ngài ấy tựa như sắp ngất vậy. Sau khi ngài ấy tỉnh lại, lập tức gửi cho Chu Đức một phong thư, lần nữa nhắc lại những lời hứa và bảo chứng của anh ta hơn một năm trước đây, mà ra lệnh cho thuộc hạ nhanh chóng phóng thích 6 vị tu sĩ đang còn bị giam giữ, đồng thời yêu cầu Chu Đức có lời giải thích thoả đáng cho cái chết thảm của 12 vị tu sĩ.

Nhưng, phong thư này cũng giống như đá chìm đáy biển, chẳng có một chút phản ứng. Chí thành có thể cảm ứng trời, có thể động lòng người, nhưng lại không thể cảm động Đảng Cộng Sản.

Lại nói, trước khi 18 vị tu sĩ xuất phát, không phải rõ ràng nói phải tránh đi qua những vùng Cộng quân đang nắm giữ để đi vào núi Thái Hành sao? Làm sao lại rơi vào nanh vuốt của Cộng quân vậy? Hơn ba tháng sau, năm tu sĩ bị Cộng quân bắt giữ (một người đã chết trong tù) được phóng thích, trở về Bộ chỉ huy của Đoàn giám sát, thì chúng tôi mới biết rõ chân tướng. Vốn dĩ hôm đó bọn họ đã ra khỏi Tấn Thành; nhưng đi được chưa xa thì vị tu sĩ thâm niên nọ đã thuyết phục người dẫn đội, hơn nữa đại bộ phận tu sĩ cũng muốn sớm ngày gặp lại linh mục Lôi, nên liền theo kế hoạch ban đầu của anh ta, đổi lộ trình sang con đường ngắn hơn. Bọn họ vừa đi vào phòng tuyến của quân Cộng Sản, thì lập tức bị bắt giữ, và gặp phải đại hoạ sát thân như vậy. Mấy vị tu sĩ trẻ mới được quân Cộng phóng thích vừa kể vừa thổn thức: “Thật không ngờ quân Cộng Sản lại chẳng có một chút tính người như thế!

CUỘC GẶP BẤT NGỜ CỦA HAI VỊ LINH MỤC HỌ LÔI

Trong cuộc đời của linh mục Lôi Minh Viễn, Ngày 28 tháng 2 năm 28 Dân Quốc đáng được nói là một ngày vĩ đại, đúng hơn phải nói là một ngày quan trọng, hoặc chí ít cũng là một ngày đáng nhớ; ngày đó là ngày hai vị linh mục, Minh Viễn và Chấn Viễn, gặp nhau lần cuối cùng. Cuộc hội ngộ lần này của hai người họ, mặc dù đã có sự sắp xếp trước, nhưng một người ở trong vùng địch chiếm đóng, một người ở trên vùng hoả tuyến trong mưa bom bão đạn, việc họ có thể gặp gỡ nhau không chỉ giống như “Mò kim đáy bể, dã tràng xe cát”, mà đơn giản là “Tự tìm đường chết”, là “Tìm sự sống trong cửa tử”. Cả hai đều giữ trong lòng tâm lý “Thử xem sao”, ngàn vạn nào có nghĩ tới điều họ mong ước thật sự đã được thực hiện rồi; và việc gặp gỡ lần cuối này còn hơn cả việc hoàn thành một việc lớn nữa. Nhắc đến linh mục Lôi Minh Viễn và linh mục Lôi Chấn Viễn, trước những năm 60, trong phạm vị Giáo hội Trung Quốc Đại Lục, ngay cả trong xã hội dân sự ở An Quốc-Hà Bắc, đều không có xưng hô bằng tên của họ, mà đơn giản gọi bằng những tên rất thân thương là “Đại Lôi” và “Nhị Lôi”. Điều này đủ đề thấy danh tiếng rất lớn của hai vị linh mục này trong xã hội bấy giờ, qua đó cũng có thể phần nào nhận ra mối liên hệ sâu sắc giữa hai người họ. Linh mục “Nhị Lôi” đương thời chính là linh mục Lôi Chấn Viễn, người sau này nổi danh quốc tế với tên gọi “Linh mục chống Cộng”.

Bất luận quá khứ hay là hiện tại, nếu có người hỏi: hai vị linh mục này có phải là anh em đồng bào hay không? Đáp án của tôi thường là như thế này: hai người họ luận về huyết thống không phải là anh em, nhưng luận về tinh thần lại là “Tri âm tri kỷ”. Linh mục Lôi Chấn Viễn vốn tên là Raymond de Jaegher, ngài ấy vì ngưỡng mộ tinh thần của linh mục Lôi Minh Viễn —— tôi có thể nói, ngài ấy hi vọng bản thân sẽ trở thành Lôi Minh Viễn thứ 2, nên sau khi đến Trung Quốc thì lấy tên tiếng Trung là Lôi Chấn Viễn. Đúng như tên gọi, xem hình thức có thể nhận rõ nội dung, ngài ấy là muốn hoạ lại dấu chân của linh mục Lôi Minh Viễn, đồng thời cũng muốn tiếp tục và phát dương “Tinh thần Minh Viễn”.

Sau khi linh mục Lôi Minh Viễn qua đời, cái tinh thần mà linh mục Nhị Lôi thể hiện và thực hiện thật sự có thể nói ngài ấy là Lôi Minh Viễn thứ 2; Đó là thứ rõ như ban ngày và còn nổi danh quốc tế. Ở đây chẳng cần phải lắm lời dài dòng, chỉ nói cảm tình, tư tưởng, tinh thần của hai người họ trong mười năm cùng nhau làm việc thực sự đã đạt đến cảnh giới “Nước sữa hoà hợp”, là một sự liên hệ cực kỳ gắn bó và ra như không có khoảng cách. Linh mục Nhị Lôi mặc dù không có chính thức gia nhập Dòng Gioan Tẩy Giả, nhưng ngài ấy cũng rất yêu mến Dòng Gioan Tẩy Giả. Linh mục Lôi thì sao? Ngài ấy cũng rất coi trọng linh mục Nhị Lôi, và yêu mến ngài ấy không thua kém bất cứ tu sĩ nào của hội dòng. Vì thế, khi linh mục Lôi trước khi ra tiền tuyến, đã đem hai hội dòng mà ngài ấy sáng lập uỷ thác cho linh mục Nhị Lôi coi sóc. Điều này có thể làm chứng cho sự coi trọng của linh mục Lôi đối với ngài ấy. Và sau khi linh mục Lôi qua đời, linh mục Nhị Lôi cũng thực sự đã vắt cạn sức lực và tâm huyết để bồi đắp cho hai hội dòng này. Đến khi ngài ấy qua đời, trước sau vẫn luôn là cột trụ vững chắc để chống đỡ hai hội dòng này.

Chính vì mối liên hệ như thế, linh mục Nhị Lôi mới mạo hiểm tính mạng, chẳng màng gian khó, đi qua những phòng tuyến của quân Nhật, né tránh được tai mắt của Cộng quân, trèo đèo lội suối tới núi Thái Hành gặp linh mục Lôi. Hai vị linh mục ở hai vùng trạng thái đối nghịch nhau, cách xa cả ngàn vạn dặm, bất ngờ gặp gỡ tương phùng, biểu hiện và cảm tình mừng vui bỡ ngỡ thật khó để nói nên lời. Theo như đoạn hồi ký tường thuật lại sự việc này của linh mục Nhị Lôi, viết: “Chúng tôi đã gần ba năm rồi chưa gặp nhau, bất ngờ gặp gỡ, việc muốn nói quả thật là rất nhiều, chẳng biết phải bắt đầu từ đâu. Chúng tôi bèn nghĩ gì nói đó, cũng chẳng có thứ tự nhất định. Tôi nói với linh mục Lôi về tình hình gần đây của hai tu hội ở Bắc Bình, An Quốc; ngài ấy kể tôi nghe về những thành quả của ngài ấy khi cứu thương trên chiến địa cũng như việc tiếp tế nạn dân và muôn ngàn thứ việc khác. Chúng tôi cũng bàn đến những kế hoạch công việc của tương lai nữa. Linh mục Lôi còn đặc biệt nhắc đến những lần ngài ấy được Uỷ viên trưởng Tưởng Giới Thạch triệu kiến. Ngài ấy còn nói, cuộc đời của ngài ấy có hai người để lại cho ngài ấy những ấn tượng sâu sắc: một người là Đức Hồng Y và một người khác chính là Uỷ viên trưởng Tưởng Giới Thạch. Ngài ấy còn nói, tôi ở trước mặt họ tự cảm thấy bản thân giống như đứa trẻ vậy”.

Linh mục Lôi Chấn Viễn tiếp tục nói như sau: “Linh mục Lôi khi ấy mặc dù rất hứng phấn vui vẻ, tinh thần gia tăng gấp bội, đặc biệt là khi nói chuyện; nhưng điều ấy cũng không thể dấu đi tình trạng suy nhược và bệnh tật trên người. Tôi trực tiếp nói với ngài ấy, tôi phát hiện sức khoẻ của ngài ấy có vấn đề. Ngài ấy cũng rất thản nhiên thừa nhận: “Cỗ máy này, tức thân thể của ngài ấy, hư rồi, cần phải sửa chữa thật tốt, cần phải tra dầu thêm nhớt, và còn phải thay linh kiện nữa,…… nếu như sửa chữa đúng cách, vẫn có thể tiếp tục sử dụng một thời gian nữa, còn không thì phải báo phế rồi, thải loại rồi”. Tôi cũng đã nghĩ đến, cần phải đem ngài ấy đến một bệnh viện tốt hơn, để cỗ máy ấy nghỉ ngơi mấy ngày,…… nhưng ngài ấy đột nhiên chuyển qua chủ đề khác: ‘không! Không! Tôi không muốn nghỉ ngơi,…… công việc tồn đọng rất nhiều rồi, tôi phải làm việc,…… kháng chiến thắng lợi, tôi phải đi qua “Khải Hoàn Môn” tiến vào Bắc Bình, tới bệnh viện trung ương, mời ông bạn già, bác sĩ Tống, sửa chữa cỗ máy này……

Linh mục lôi nói xong những lời này, lập tức dừng cuộc nói chuyện, muốn đi làm một công việc vô cùng quan trọng và khó khăn.

Đây chính là tính cách đặc trưng của linh mục Lôi Minh Viễn. Người người nói ngài ấy là vị linh mục không biết mệt mỏi. Nhưng, một cây nến bị đốt cháy hai đầu, linh mục Lôi mặc dù ý chí kiên cường nhưng thể lực lại sắp cạn kiệt rồi……

THÀNH QUẢ KỲ DIỆU

Linh mục Lôi Chấn Viễn mạo hiểm gian nguy, đường xá xa xôi đến tiền tuyến gặp gỡ linh mục Lôi Minh Viễn, không chỉ là để đàm đạo lại chuyện quá khứ, mà là có một mục đích rất quan trọng và một công việc cũng rất gian khổ gay go: ngài ấy muốn linh mục Lôi viết ra Tu Luật cho hai hội dòng mà ngài ấy mới thành lập.

Linh mục Lôi Minh Viễn thành lập hai Hội Dòng Gioan Tẩy Giả và Têrêsa cũng đã gần 10 năm rồi, nhưng kỳ thực vẫn chưa có một bộ tu luật hoàn chỉnh. Tôn chỉ và tinh thần của hội dòng, mặc dù sớm đã xác định, nhưng phương thức đời sống và phạm vi công việc, ngài ấy lại không muốn quyết định quá nhanh, ngài ấy muốn trước khi lập thành luật, trước tiên “Thử nghiệm” một thời gian. Ngài ấy đã từng viết ra không ít những quy tắc chi tiết có liên quan đến công việc và đời sống của hội dòng, nhưng đó đều là những phân mảnh rời rạc, có liên hệ mật thiết theo sự biến thiên của thời đại cũng như sự thay đổi của hoàn cảnh, và thường có nhiều đổi thay. Ví dụ, ngài ấy đã nói qua: Mục đích thành lập ban đầu của bổn hội là để mở rộng con đường truyền giáo cho các linh mục, giống như thánh Gioan Tẩy Giả dọn đường cho Chúa Giêsu vậy. Nhưng sau này, khi công việc dần dần phát triển, chúng tôi không thể không đổi thành “Phục vụ xã hội” vậy.

Mặc dù Chẳng có “Quy định thành văn”, nhưng các tu sĩ lại chẳng có chút khó khăn khi sống bên cạnh linh mục Lôi, vì ngài ấy chính là bộ tu luật sống. Nhưng, các tu sĩ khác không sống bên cạnh ngài ấy thì lại không giống như thế, Những tu sĩ nam nữ mà linh mục Lôi Chấn Viễn hai ba năm nay thay mặt linh mục Lôi quản lý ở vùng chiếm đóng, thì gặp rất nhiều khó khăn, nên ngài ấy cảm nhận sâu sắc sự cần thiết của một văn bản tu luật. Vì thế, ngài ấy đã đến gặp linh mục Lôi, sau khi đã ôn lại tình xưa nghĩa cũ, liền lập tức đề xuất yêu cầu linh mục Lôi nhanh chóng hoàn thành bản tu luật. Linh mục Lôi lúc đầu không đồng ý, ngài ấy nói: “Thánh Vinh Sơn đã kinh qua khoảng 20 năm mới viết ra bộ tu luật hoàn chỉnh cho Tu Hội Nữ Tử Bác ÁiTu Hội Truyền Giáo Vinh Sơn; cha muốn tôi bây giờ liền viết tu luật cho hai Hội Dòng Gioan Tẩy GiảTêrêsa ư?” Nhưng linh mục Lôi Chấn Viễn lại trả lời cách kỳ diệu hơn: “Cha không phải là thánh Vinh Sơn, và Trung Quốc thì cũng không phải là Pháp!” Linh mục Lôi Chấn Viễn đã thắng, linh mục Lôi Minh Viễn đáp ứng từ ngày mai sẽ từ chối tất cả những việc không quan trọng, để chuyên tâm chỉnh lý và biên soạn văn bản tu luật.

Sau thánh lễ ngày hôm sau, linh mục Lôi nhấc bút nghiên mực bắt đầu viết bản tu luật bằng tiếng Trung; ngài ấy có thói quen dùng bút lông viết chữ Trung Quốc. Ngài ấy viết xong một phần thì đưa cho linh mục Lôi Chấn Viễn chuyển ngữ qua tiếng La Tinh. Linh mục Lôi Chấn Viễn không hẳn là người dịch lưu loát, nên hai người họ thường bàn bạc với nhau, cân nhắc văn điệu sao cho phù hợp. Họ bên người chẳng có sách tham khảo, ngay cả quyển giáo luật cũng không, chỉ có những mảnh bản thảo tu luật rời rạc mà linh mục Lôi đã viết trước đó. Nên thứ ngài ấy viết ra là tinh thần, chứ không phải chỉ là những con chữ cứng ngắc.

Chính vì như thế, hai người họ làm việc cả ngày lẫn đêm, đương nhiên cũng có thời gian nghỉ ngơi trò chuyện. Sau một tuần, kỳ tích đã xuất hiện rồi: bản tu luật bằng tiếng Trung mà linh mục Lôi Minh Viễn dùng bút lông viết ra, ngài ấy gọi là “Gia Quy Thích Nghĩa” (tức là bản giải nghĩa quy tắc gia đình), đã hoàn thành; ngoài ra, bản dịch tiếng La Tinh của linh mục Lôi Chấn Viễn cũng đã theo đó mà ráo mực. Linh mục Lôi dùng ngữ điệu hài hước nói với linh mục Lôi Chấn Viễn: “Cha mang theo bản tiếng La Tinh đi tìm linh mục Văn Đức Nhĩ, thay tôi ba quỳ chín khấu ngài ấy, xin ngài ấy đối chiếu bộ giáo luật cải chính bộ tu luật này”.

Ngoài ra, vẫn còn sự tình kỳ diệu hơn đã phát sinh: chính là ngày thứ hai sau khi linh mục Lôi viết xong bản tu luật, buổi sáng ngày 9 tháng 3 năm 29, sau khi linh mục Lôi Chấn Viễn vội vã đem bản tu luật bằng La Tinh ngữ rời khỏi núi Thái Hành, chiều hôm đó, linh mục Lôi liền bị Cộng quân bắt giữ, tạm giam 40 ngày. Sau khi được thả ra, thì 40 ngày sau thì rời khỏi thế gian, về với Thiên Chúa. Nếu linh mục Lôi Chấn Viễn không đến thúc giục linh mục Lôi viết ra tu luật, bổn hội sẽ mãi chẳng có bản tu luật viết tay của linh mục Lôi rồi.

Khi linh mục Lôi bị bắt giữ, người tuỳ tùng của ngài ấy đã đem tất cả giấy tờ lần lượt tiêu huỷ, chỉ giữ lại bản tu luật bằng tiếng Trung do linh mục Lôi chính tay viết, âm thầm nhờ người gián tiếp mang đến Bộ chỉ huy Đoàn giám sát ở Tấn Thành giao cho tôi, tôi lập tức đem nó chuyển đến đại hậu phương cất dấu. Sau khi Cộng quân chiếm cứ Đại Lục, tôi liền đem nó từ Bắc Bình đến Hồng Kông, rồi sau đó từ Hồng Kông đem tới Đài Loan, hiện đang lưu giữ tại tổng hội của hội dòng tại Đài Trung.

KIẾN NẰM TRÊN CHẢO NÓNG

Khi hai vị linh mục ở núi Thái Hành cách thần kỳ đã viết hoàn trọn bộ tu luật cho hai hội dòng Gioan Tẩy Giả và Têrêsa, thì đại bộ phận thành viên của Đoàn giám sát cũng đang xuống núi, tiến về dải Tấn Thành và Dương Thành, triển khai những công việc quy mô lớn, bao gồm văn hoá, tuyên truyền, cứu tế, y dược,… trước đây đã từng nhắc qua nên ở đây không nhắc lại nữa.

Nhưng, việc tốt thường hay gặp trắc trở, giữa tháng 2 năm 29, Cộng quân ở núi Thái Hành ngang nhiên tấn công Quốc quân. Quân đoàn 27 của Phạm Hán Tuấn, Quân đoàn 40 của Bàng Bính Huân, Quân đoàn 97 của Chu Hoài Băng, quân Lộc Trung Lân của chính phủ Hà Bắc, cũng đều bị quân Cộng tấn công mạnh mẽ. Trong đó, quân Lộc Trung Lân là bị tổn thất nặng nề nhất, chủ tịch Lộc Kiêm từ đầu tháng ba đã dẫn tàn quân chạy đến Tấn Thành chỉnh đốn. Tư lệnh chiến khu 1, Trưởng quan Vệ Lập Hoàng cũng dẫn quân chi viện từ Lạc Dương vượt qua Hoàng Hà tới Tấn Thành ứng phó với hành động phản loạn của Cộng quân. Sự nghiêm trọng của thế cục chỉ cần nghĩ là có thể biết.

Linh mục Lôi và một số thành viên Đoàn giám sát làm việc ở núi Thái Hành, đều trú ngụ bên cạnh cơ quan chính phủ tỉnh Hà Bắc. Chúng tôi nghe nói chủ tịch Lộc đã tới Tấn Thành, quyền chủ nhiệm của bổn hội Tăng Hồng Quân và tôi lập tức đến thăm chủ tịch Lộc, và thám thính tình hình gần đây của linh mục Lôi. Chủ tịch Lộc nói với chúng tôi: khi Cộng quân tấn công chính phủ tỉnh, tôi đã khuyên linh mục Lôi cùng rút lui với chúng tôi, nhưng linh mục Lôi vẫn mù quáng tin lời của Chu Đức, khăng khăng ở lại. Tôi nói với linh mục Lôi: lời hứa của Cộng sản giống như không khí vậy. Ngài ấy vẫn là không nghe lời. Tôi không thể cưỡng ép ngài ấy, liền khuyên ngài ấy đến Bộ chỉ huy Quân đoàn 5 mới, cậy nhờ tướng quân Tôn Điền Anh. Cộng quân dường như đã hẹn ước ngầm với Tôn tướng quân, không tấn công Quân đoàn 5 mới. Chỉ cần linh mục Lôi không rời khỏi đó, thì sự an toàn của ngài ấy liền không phải là vấn đề rồi.

Qua mấy ngày, ngày 10 tháng 3, đột nhiên tiếp nhận một điện báo từ Quân đoàn 5 mới của Lưu Tĩnh Trừng, một giáo dân Thiên Tân, tham mưu của quân đoàn 27 (có độ cũng muốn gia nhập Dòng Gioan Tẩy Giả của linh mục Lôi), điện báo viết: “…Linh mục Lôi, ngày mùng 9, đã bị sư đoàn 115 của Cộng quân bắt giữ, nhanh điện xin các bên liên quan ứng cứu,…

Tôi xem xong điện báo, mặc dù chẳng có đi vào hôn mê, nhưng tim lại đập loạn xạ mãnh liệt, suýt nữa thì thở không nổi. Tôi cưỡng ép bản thân cố giữ vững bình tĩnh, không để lòng trí rối bời. Khoảng 3,4 phút sau, hô hấp dần dần hồi phục bình thường, liền vừa đem tin tức không hay này nói với Quyền chủ nhiệm Tăng Hồng Quân, vừa tới bốt điện đài chuyên dụng của bổn đoàn, lập tức đánh điện cho Hội uỷ viên quân sự, chuyển thỉnh cầu đến Tưởng Giới Thạch, khẩn thiết xin ông ta cứu linh mục Lôi.

Đồng thời, tôi cũng đánh điện xin tổng giám mục Hàn Bân nghĩ cách tìm những bên liên quan cứu linh mục Lôi. Ngoài ra, tôi cũng đánh điện cho tướng quân Đường Ngọc Nguyên, Quân đoàn trưởng Quân đoàn 3 ở núi Trung Điều, ông ấy trước đây cùng với Chu Đức đồng giữ chức Quân đoàn trưởng Quân đoàn 3, hy vọng ông ấy có thể điện xin Chu Đức giải thoát cho linh mục Lôi.

Ngày hôm sau, chính là ngày 11 tháng 3, tôi tới Bộ tư lệnh lâm thời Tấn Thành ở chiến khu 1, gặp Trưởng quan Tướng quân Vệ Lập Hoàng, và báo cáo với ngài ấy tin tức linh mục Lôi không may bị bắt giữ. Ngài ấy rất hào sảng đáp ứng, lập tức điện cho Chu Đức kiểm tra.

Cùng ngày, tôi cũng đến gặp Chủ tịch Lộc, thông báo cho ngài ấy tin tức không may này. Sau khi nghe biết, Chủ tịch Lộc liền dậm chân nói: “Linh mục Lôi quá chân thật rồi, ngài ấy nhất định đã ra khỏi Bộ chỉ huy Quân đoàn 5 mới, nếu không thì sẽ không bị bắt giữ. Aizaa! Linh mục Lôi quá tin tưởng Chu Đức rồi, kỳ thực, Chu Đức là chuyên gia nói dối đấy!

Việc linh mục Lôi bị bắt, đối với Đoàn giám sát và hai Hội Dòng Gioan Tẩy Giả và Têrêsa mà nói, không chỉ là một quả bom nổ. Quyền chủ nhiệm Tăng Hồng Quân, Cục trưởng các cục, nam nữ tu sĩ bổn hội và tất cả các đoàn viên, đều giống như chạm vào dòng điện, và cũng giống như kiến nằm trên chảo nóng, chạy đông chạy tây, không thiết ngồi hay nằm nghỉ ngơi; có người than vãn thở dài, có người lại âm thầm rơi lệ, có người vò đầu bứt trán, có người lại nắm tay dậm chân, có người… tất cả đều rối bời lòng trí.

Nói thực lòng, cá nhân tôi có hai đêm đã không chợp mắt, sợ linh mục Lôi vạn nhất có chuyện không hay gì, Đoàn giám sát; Tiền đồ của hai Hội Dòng Gioan Tẩy Giả và Têrêsa; Công việc cứu trợ nữa; Và cả tương lai của tôi nữa, tất cả sẽ ra như thế nào đây? …… tin tưởng sẽ không chỉ mình cá nhân tôi là có suy nghĩ như vậy.

Ba ngày sau, người tuỳ tùng của linh mục Lôi, ông Viên Văn Trung, một giáo dân trung thực, từ Hồ Nam nhanh chóng chạy đến Tấn Thành, tường tận thông báo cho chúng tôi quá trình linh mục Lôi bị bắt giữ. Quả nhiên không ngoài dự liệu của chủ tịch Lộc, linh mục Lôi đã bị lừa gạt ra khỏi Quân đoàn 5 mới, để rồi bị bắt giữ. Khi ngài ấy bị bắt, Viên Văn Trung luôn bám gót ở bên cạnh linh mục Lôi. Trên người ông ấy có hai khẩu súng, nhưng đều bị Cộng sản phát hiện, cũng như muốn anh ta giao nộp. Anh ta kiên trì không khuất phục và dường như sắp động thủ. Linh mục Lôi thấy tình hình không ổn, lập tức lệnh Viên Văn Trung giao súng, và còn dẫn dụng cả kinh thánh để cảnh tỉnh ông ấy: “Phàm kẻ nào dùng gươm, sẽ bị chết dưới gươm”. Linh mục Lôi cũng ngầm ra hiệu cho ông Viên Văn Trung phải tìm thời cơ tháo chạy về Bộ chỉ huy Đoàn giám sát, nói cho mọi người về cảnh ngộ của ngài ấy.

Quả nhiên không lâu, bắt gặp một thời cơ tốt, Cộng quân hỏi: Những người khác đang trốn ở đâu? Viên Văn Trung đáp lời: “Tôi đi tìm bọn họ!” Ông ấy liền một hơi chạy cả đêm đến Bộ chỉ huy Đoàn giám sát ở Tấn Thành.

TÙ NHÂN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN

Cả đời linh mục Lôi, mỗi lần bản thân ngài ấy chịu thiệt trong tương giao nhân sinh, bạn hữu của ngài ấy luôn nói: “Linh mục Lôi quá chân chất rồi!”. Thành thực mà nói, linh mục Lôi không phải không thừa nhận “Sự chân thành đến ngu ngốc” của bản thân. Ngài ấy cũng biết người ta sau lưng gọi ngài ấy là “Đại ngốc nghếch”; nhưng ngài ấy dường như không thể phá bỏ đi sự ngốc nghếch này. Cộng sản lấy gian dối làm đầu, nên sớm đã nhìn ra loại cá tính này của linh mục Lôi, liền lợi dụng nó trong phút này để bắt giữ ngài ấy.

Vừa khéo, tu sĩ Phú Nhân cũng dắt mấy thành viên của Đoàn ra bên ngoài khu vực Quân đoàn 5 mới chiếm cứ làm việc, Cộng phỉ trước tiên đem họ giam lại, sau đó lừa tu sĩ Phú Nhân đích thân viết một lời nhắn: “Chỉ cần đích thân linh mục Lôi đến đảm bảo, chúng con liền có thể lập tức được thả”.

Một vị nhân viên làm công tác chính trị, Thuộc hạ của Lưu Bá Thừa, Sư trưởng Sư đoàn 115, họ Hạng hay họ Tương? Có khi lại nói họ Lưu. Bản thân anh ta cũng không rõ họ gì, đã đích thân cầm lời nhắn mà tu sĩ Phú Nhân viết, đến Bộ chỉ huy Quân đoàn 5 mới ở Diêu Thôn gặp mặt linh mục Lôi. Linh mục Lôi với tình phụ tử, vừa nhìn thấy nét chữ của tu sĩ Phú Nhân viết, ngài ấy ngay cả thời gian suy nghĩ cũng không cần, lập tức muốn cùng họ Hạng đi bảo lãnh cho người của mình. Tham mưu trưởng Quân đoàn 5 mới là một người thông minh, vừa nhìn qua đã thấy rõ âm mưu của Cộng sản, tích cực khuyên ngăn linh mục Lôi đi theo họ Hạng, đồng thời cảnh cáo ngài ấy: “Nếu ngài rời khỏi Bộ chỉ huy Quân đoàn, chúng tôi liền vô phương bảo đảm sự an toàn của ngài”.

Những hành động dứt khoát của linh mục Lôi đều là vì chính nghĩa, vì quốc gia, vì sự phồn vinh của dân tộc Trung Hoa. Ngài ấy cũng chưa từng làm qua việc gì có lỗi với Đảng Cộng Sản, hơn nữa, Chu Đức đã từng đảm bảo với ngài ấy “Không làm khó Công Giáo”. Ngài ấy cũng rất hy vọng cùng Chu Đức ôn lại chuyện xưa, hay chí ít là nhìn thấy Sư trưởng Lưu Bá Thừa. Vậy nên, ngài ấy khăng khăng muốn đi theo họ Hạng. Tham mưu trưởng Quân đoàn 5 mới giận dữ dậm chân nhưng cũng không thể cưỡng ép linh mục Lôi ở lại, mặt mày buồn bã ngóng theo bóng linh mục Lôi đi khỏi Bộ chỉ huy Quân đoàn.

Khi Linh mục Lôi đi theo họ hạng tới nơi anh ta trú ngụ, tùy tùng Viên Văn Trung mang theo hai khẩu súng luôn bám sát bên cạnh linh mục Lôi bảo vệ ngài ấy. “Ngôn ngữ duy nhất” mà cộng sản nhận biết chính là vũ khí. Họ Hạng vừa đi vừa liếc xéo vũ khí trong tay Viên Văn Trung. Mãi cho tới khi đến nơi linh mục Lôi ở, họ Hạng muốn Viên Văn Trung giao ra vũ khí, Viên Văn Trung kiên trì không chịu, dường như muốn động thủ. Linh mục Lôi luôn luôn ghét vũ khí, nếu không phải đội cảnh vệ của bộ chỉ huy phái cứng Viên Văn Trung phụ trách bảo vệ ngài ấy, ngày ấy sớm cũng đã cho Viên Văn Trung nghỉ việc rồi. Hiện tại ngài ấy cũng không nguyện vì súng đạn mà khiến cho tình hình phát sinh xấu hơn, nên lập tức lệnh cho Viên Văn Trung giao súng.

Họ Hạng sau khi tiếp nhận súng, lập tức thay đổi thái độ, nói với linh mục Lôi: “Ngài đã bị bắt! Ngài không cần phải đi bảo lãnh cho cấp dưới của ngài nữa đâu, theo tôi đi gặp Sư trưởng Lưu nào!

Linh mục Lôi biết mình đã bị lừa, cũng ý thức sự nghiêm trọng của tình hình, nên ngầm bảo Viên Văn Trung nói với thư ký là tu sĩ Lại Mạnh thiêu huỷ công văn, chỉ giữ lại bản tu luật của Hội Dòng Gioan Tẩy Giả bằng tiếng Trung mà ngài ấy mới viết, đồng thời kêu anh ta thừa cơ chạy trốn, đem sự việc vừa mới xảy ra báo cáo cho Bộ chỉ huy Đoàn giám sát.

Viên Văn Trung cũng tương đối cơ động, anh ta mượn cớ “Đi tìm người”, rời khỏi hiện trường, tìm đến tu sĩ Lại Mạnh, theo sự phân phó của linh mục Lôi, mang bản tu luật Dòng Gioan Tẩy Giả mà đích thân linh mục Lôi viết, một mạch nguyên đêm chạy đến Tấn Thành, nói cho Ban chỉ huy Đoàn giám sát chúng tôi việc linh mục Lôi bị bắt.

Linh mục Lôi Minh Viễn bị Cộng sản bắt là ngày mùng 9 tháng 3 năm 29 Dân Quốc. Buổi sáng cùng ngày hôm ấy, linh mục Lôi Chấn Viễn còn cùng linh mục Lôi cùng nhau cầu nguyện và dùng cơm sáng. Không biết là linh mục Lôi Chấn Viễn biết trước tương lai, hay là do sự quan phòng đặc biệt của Thiên Chúa, sau bữa sáng, linh mục Lôi Chấn Viễn đem theo 2 nữ tu Dòng Têrêsa ngậm ngùi cáo biệt linh mục Lôi. 2 nữ tu lấy ấy ở tiền tuyến nhận nhiệm vụ làm hộ lý đi theo quân đoàn, vì sức khoẻ không tốt nên trở lại tu viện nghỉ dưỡng. Bọn họ đã đi qua được tuyến phòng thủ của Cộng quân, rồi lại chuyển hướng tránh sự soi xét của quân Nhật, và đã an toàn về tới hội dòng ở An Quốc Hồ Bắc. Nếu ngày ấy không đi, hậu quả khó có thể lường hết. 2 vị linh mục lần này li biệt, thật cũng là lần vĩnh biệt thế giới này.

Nơi khác, sau khi tu sĩ Phú Nhân và một số thành viên Đoàn giám sát hợp mặt với linh mục Lôi, họ Hạng liền đem chiến lợi phẩm của mình, chính là linh mục Lôi và một nhóm người đến một thôn nhỏ, căn cứ của Cộng quân, tên gọi là Thạch Gia Trang. Vừa tiến vào thôn nhỏ này, họ Hạng lập tức gỡ xuống bộ mặt giả nhân giả nghĩa, đem linh mục Lôi và nhóm người kia nhốt trong một căn phòng, rồi nghiêm mặt nói:

—— Ông Lôi, chịu uỷ khuất chút nhé! Đừng rời khỏi phòng này. Cẩn thận! Tứ phía đều có cảnh vệ canh phòng nghiêm ngặt, đừng tự chuốc vạ vào thân.

—— Tôi hy vọng được nói chuyện với tư lệnh Chu Đức, có thể dắt tôi đi gặp không?

—— Tư lệnh Chu không có cần thiết gặp ngài!

—— Vậy tôi muốn gặp Sư trưởng Lưu. Đó là điều mà anh đã nói qua.

—— Đến giờ, Sư trưởng Lưu tự sẽ triệu kiến ngài, ngài đợi đi nhé!

Ngày hôm sau, tu sĩ Phú Nhân cùng mọi người cũng bị áp giải đến đó. Linh mục Lôi nhìn thấy tu sĩ của ngài ấy, buồn vui lẫn lộn, vừa hân hoan vừa thất vọng nói: “Được rồi, chúng ta chết cùng nhau thôi!”.

TRUYỀN PHÚC ÂM TRONG NGỤC

Đương thời Trung Cộng tại sao muốn giam giữ linh mục Lôi vậy? Đừng nói cá nhân linh mục Lôi khó hiểu, vì ngoài Chu Đức nắm chắc ra, tất cả những người quen biết linh mục Lôi đều lắc đầu thở dài và cho rằng quá không cần thiết rồi, họ còn nói Chu Đức làm việc này quá ngu xuẩn rồi! Anh ta tại sao lại ngu ngốc mạo hiểm đi làm cái việc mà cả thiên hạ cho là không tốt vậy! Tại sao lại đi ức hiếp một con người nổi danh thế giới, luôn hi sinh bản thân và yêu nước cứu dân vậy? Ngay cả Tướng quân Phùng Ngọc Tường của Trung Cộng lúc đó cũng cho rằng Chu Đức đã làm một việc ngu ngốc “Tổn người không lợi mình”; ông ta vì thế cũng đã đánh điện thúc giục Chu Đức nhanh chóng thả linh mục Lôi.

Từ trong lời nói mà nhân viên chính trị thẩm vấn linh mục Lôi, có thể suy đoán nguyên nhân chủ yếu mà bọn họ bắt giữ linh mục Lôi, chính là hoài nghi linh mục Lôi bị Quốc Dân Đảng lợi dụng. Kỳ thực, linh mục Lôi chỉ là thực tâm vì kháng chiến cứu quốc, vì phục hưng dân chủ; và mục tiêu cuối cùng là để vì “Trung Quốc quy Kitô” mà phấn đấu, mà phục vụ. Vì thế, trong tâm khảm của ngài ấy chẳng có chút ý niệm kéo bè kết phái. Ngài ấy không chỉ phủ nhận bản thân bị người lợi dụng, mà còn thẳng thắn chỉ ra Trung Cộng như thế nào đã đi ngược lại lời hứa “Hợp tác với Quốc quân, đoàn kết kháng Nhật”, khiến cho họ Hạng, nhân viên chính trị của Trung Cộng chỉ biết câm nín, và gồng mình lên thể hiện sự giận dữ và cố tình gậy sự.

Sau khi trải qua mấy lần trò chuyện, có lẽ Trung Cộng dần dần đã hiểu rõ sự chính trực hùng dũng của linh mục Lôi, hoặc chí ít là tìm chẳng ra những lí do cho những tội danh “Đáng phải có”. Có lẽ chịu sức ép bên ngoài từ dư luận hoặc chính phủ trung ương, sự giám sát của bọn họ đối với linh mục Lôi vì thế cũng không khắt khe và nghiêm trọng như lúc ban đầu. Lúc này, linh mục Lôi có thể ra ngoài thôn đi bộ, nhưng cũng không thể đi quá xa.

Ngoài ra, ngài ấy cũng có thể tiếp khách, bạn hữu của ngài là linh mục Tôn thường đến an ủi và ban Bí tích Giải tội cho ngài ấy. Chuyện ăn uống lúc này cũng có nhiều cải thiện, nhiều lần họ cũng nấu canh gà cho linh mục Lôi uống. Ngoài tinh thần nhiều lần chịu sự tra vấn mệt mỏi của nhân viên chính trị, linh mục Lôi ở trong ngục vẫn có chút tự do.

Linh mục Lôi không chỉ nhiều lần nhắc nhở đệ tử nam nữ của ngài ấy: “Đừng để hoàn cảnh chi phối, mà phải cho phối hoàn cảnh”, bản thân ngài ấy cũng như thế mà làm, và còn có thể nói ngài ấy thường là làm trước nói sau. Hiện giờ, ngài ấy mặc dù thân ở trong tù, nhưng nhiệt tâm và hành động “Truyền bá Phúc Âm” một chút cũng không chịu ảnh hưởng trong hoàn cảnh ngục tù.

Cùng bị bắt giam với linh mục Lôi, ngoài hai tu sĩ Phú Nhân và Lại Mạnh ra, vẫn còn có hai mươi mấy vị đoàn viên Đội giám sát, và hơn nửa trong số đó không phải là tín hữu Công giáo. Bọn họ hằng ngày mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng tinh thần từ linh mục Lôi, và sớm cũng đã có tâm nguyện mộ đạo, chỉ vì công việc bận rộn, nên vẫn chưa chính thức nghiên cứu giáo lý. Hiện tại bị nhốt trong tù Trung Cộng, mỗi ngày ngoài hai bữa ăn, ngủ và nghe nhân viên chính trị Trung Cộng “Tẩy não”, vẫn còn không ít thời gian rảnh rỗi. Linh mục Lôi liền lợi dụng thời gian rảnh rỗi này, giải thích Phúc Âm Đức Giêsu và Giáo lý của Giáo hội cho những đoàn viên này.

Nửa năm trở lại, thân thể linh mục Lôi mỗi ngày một suy sút đi. Mấy ngày trước, ngài ấy đã thẳng thắn thừa nhận với linh mục Lôi Chấn Viễn, không ít linh kiện của cỗ máy này (chỉ thân thể của ngài) đều tổn hại nhiều rồi, và còn phải triệt để xử lí. Bây giờ không chỉ không có cơ hội sửa chữa, mà còn lại gia tăng thêm sự ngược đãi tinh thần của Trung Cộng, nên cỗ máy ấy đã cận kề bờ vực của tan rã. Mặc dù như thế, nhưng linh mục Lôi phiên bản không biết mệt mỏi, mỗi ngày ở trong ngục vẫn dành thời gian rảnh giảng giải Thánh Kinh Giáo Lý cho những bạn tù mộ đạo, và dạy bọn họ cầu nguyện, có khi còn dẫn dắt bọn họ, cùng với bọn họ trải qua những giờ cầu nguyện ngắn. Đây thật là một bản hý kịch mà nhân gian ít thấy: một mặt, cán bộ chính trị của Trung Cộng ngày ngày lên lớp “Tẩy não” đám tù nhân, nhồi nhét cho bọn họ chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng Mao-Trạch; một mặt khác linh mục Lôi cũng dẫn dắt bọn họ “Trở về bản nguyên”, theo đuổi chân lý, quy thuận Chúa Kitô. Cán bộ chính trị của Trung cộng cũng phát hiện cử chỉ không có lợi đối với bọn họ của linh mục Lôi, nhưng không biết tại sao, bọn họ lại vẫn chưa gia tăng cản trở. Linh mục Lôi cũng thuận nước đẩy thuyền, gia tăng huấn luyện Giáo lý cho các người mộ đạo. Hai vị tu sĩ có khi cũng ở bên cạnh hiệp trợ, giảng giải cho bọn họ một số đời sống thực tế của giáo hữu, ví dụ như vấn đề lễ quy Thánh lễ, thứ tự giải tội, rồi hôn nhân, an táng,…

Những đoàn viên này đều là thành phần tri thức, lại là thanh niên; nên sức lí giải rất mạnh, ghi nhớ cũng rất tốt; không tới ba mươi ngày, giáo lý, giáo quy, lễ nghi,… quan trọng của Giáo hội không chỉ thông hiểu mà còn có thể đọc làu làu. Bọn họ nhiều lần xin linh mục Lôi sớm ngày chịu phép rửa, linh mục Lôi nhìn bọn họ tâm địa chân thành, đức tin mạnh mẽ, nên đêm trước khi bọn họ ra khỏi ngục (Bọn họ được thả trước linh mục Lôi mấy ngày), linh mục Lôi đã làm Phép rửa cho bọn họ, để bọn họ chính thức trở thành Kitô hữu, trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa. Điều này đối với cán bộ chính trị Trung Cộng ngày ngày lên lớp “tẩy não” cho bọn họ mà nói, thật là một sự chế giễu cực đại vậy.

OANH TẠC MỆT MỎI

Linh mục Lôi bị giam giữ trong ngục tù của cộng sản 35 ngày, từ ngày 9 tháng 3 đến ngày 13 tháng 4 năm 29. Trong thời gian này, các tờ báo lớn ở hậu phương cũng đều nghiêm khác lên án loại hành vi bỉ ổi này của Trung Cộng. Vì vậy, những điện tín kêu gọi thả linh mục Lôi cũng từ khắp nơi gửi tới những quân khu của Trung Cộng. Đặc biệt, Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch càng nghiêm khắc hơn, trực tiếp điện lệnh cho Chu Đức nhanh chóng thả linh mục Lôi, không được chậm trễ. Khả năng cũng vì muôn trùng những nguyên nhân này, nên cộng sản cũng chẳng gia tăng thêm bất cứ giày vò hay ngược đãi nào đối với thân thể của linh mục Lôi; mà còn cho ngài ấy một sự tự do tương đối. Giống như đã kể ở trên, Cộng Sản cũng chẳng ngăn cản linh mục Lôi truyền bá Phúc Âm trong ngục. Nhưng có một thứ mà một họ không bỏ qua, chính là bài tủ của Đảng Cộng Sản: oanh tạc mệt mỏi bằng như bài “Thuyết giáo”.

Họ Hạng, người phụ trách bắt giữ linh mục Lôi dường như mỗi ngày đều đến phỏng vấn và nói chuyện hàng giờ liền. Đối với bất cứ một vấn đề nào, anh ta không chỉ đào tới tận gốc rễ, mà còn muốn linh mục Lôi “Thành thật” và “Giãi bày”. Linh mục Lôi đối nhân xử thế luôn luôn ngay thẳng thành thực, nhưng cũng là một người có ý chí vô cùng kiên cường; đầu có thể rơi, máu có thể chảy, tuyệt đối không chôn vùi chân lý, càng không bán rẻ nhân cách. Vậy nên, chẳng cần nói ngài ấy cũng không muốn “Kết giao tâm tình” với Đảng cộng sản, mà còn thẳng thắn chỉ ra những âm mưu của họ Hạng. Ví dụ như họ Hạng (khả năng nhận lệnh của Chu Đức hay Lưu Bá Thừa) lần đầu tiên tìm linh mục Lôi nói chuyện, bắt đầu là một loạt những lời đường mật, nào là: Ông Lôi thật là vĩ đại! tất cả các thành tựu tuyệt vời của ngài trong quá khứ ở Thiên Tân, chúng tôi đều biết rất rõ! Ngài đối với dân chúng Hoa Bắc có sức ảnh hưởng rất lớn, đó là điều trăm mắt đều thấy. Đặc biệt, tác phong thật thà và chịu khó chịu khổ của ngài, rất hợp với sở thích của Đảng Cộng Sản chúng tôi. Thực sự, chúng tôi cũng rất kính phục tinh thần vĩ đại “Ức Phú Tế Bần” (nghĩa là kìm nén người giàu và giúp đỡ người nghèo). Theo đó, họ Hạng liền lộ ra cái đuôi hồ li, anh ta tiếp tục nói: “Quốc Dân Đảng hủ bại thối rữa ……”. chẳng đợi anh ta nói ra “Hy vọng ông Lôi hợp tác với chúng tôi, linh mục Lôi liền ngắt lời và thẳn thắng nói với anh ta: “Tôi chỉ biết yêu quốc cứu quốc, chỉ biết phục tùng chính phủ trung ương, không biết cái khác…”.

Lời này của linh mục Lôi vừa nói ra, họ Hạng giống như chạm phải dòng điện, bất ngờ đứng lên, lớn tiếng gào thét: “Được lắm! ông Lôi, ông không biết nặng nhẹ, vậy thì ông đợi chết đi: ngày mai chôn sống ông!”

Sau này, khi linh mục Lôi trên giường bệnh ở Lạc Dương hồi tưởng lại sự kiện ấy, nói ngài khi ấy thật sự cho rằng sống không nổi nữa rồi, ngài ấy nói đêm ấy ngài ấy không thể ngủ được, mặc dù cật lực khống chế bản thân, cũng đuổi đi không nổi hình ảnh của thần chết. Ngài ấy còn nói, ngài ấy đã thưởng nếm hương vị của Chúa Giêsu trong đêm ở Vườn Cây Dầu cầu nguyện.

Nhưng, ngày thứ 2 họ Hạng lại đến, mặt mày vui vẻ, vừa thấy đã nói: “Ông Lôi, xin lỗi ngài! Lời ông qua lúc sắp rời đi là đang nói đùa, ngài đừng để ý… chúng ta tạm thời đừng nói đến chuyện này”. Nói đến đây liền chuyển đến đề tài “Chiến trang Liên Xô – Phần Lan”; họ hạng xin linh mục Lôi phát biểu ý kiến về vấn đề này. Linh mục Lôi lấy lời “Trực sảng và bóng gió” trả lời: “Điều này rất đơn giản, chiến tranh Liên Xô – Phần Lan có tính chất tương đồng với chiến trang Trung Nhật”.

Họ Hạng ý thức rằng lời này của linh mục Lôi là chỉ Liên Xô là kẻ xâm lược, lập tức biến sắc nói: “Ông Lôi thật to gan, ông giám sỉ nhục Stalin vĩ đại của chúng tôi… ngày mai xử bắn ngài!” nói đoạn liền phủi áo giận dữ bước đi.

Họ Hạng, “Chuyên gia nói dối” không biết nhục này, ngày thứ ba lại đến nữa. Anh ta giống như một người máy móc. Theo lệ trước tiên xin lỗi linh mục Lôi, rồi cười cợt nói với linh mục Lôi rất nhiều những lời “Nịnh hót”; rồi tiếp sau đó hỏi cái nhìn của linh mục Lôi đối với Chủ Nghĩa Cộng Sản, thế là lại tiếp tục triển khai con đường khẩu chiến. Linh mục Lôi không chỉ bám rễ sâu trong Triết Học Công Giáo, mà còn từng nghiên cứu qua học thuyết xã hội. Ngài ấy cũng từng làm qua giảng sư Giáo Hội Học, nên đối với chủ nghĩa Mác cũng có một nhận thức tương đối. Ngài ấy còn viết qua một tập “Phê bình Chủ Nghĩa Bônsêvích”. Khi ở Bỉ hiệp trợ lưu học sinh Trung Quốc ở Pháp và Bỉ, ngài ấy cũng đã từng cùng với những học sinh cánh tả, ưa tự do thực hiện những “Cuộc chiến tư tưởng” và “Những trận bút chiến”, và cũng từng kéo ra không ít học sinh trong vòng xoáy của Chủ Nghĩa Cộng Sản. Họ Hạng chỉ nhờ học thuộc lòng một quyển “Cương Lĩnh Cộng Sản”, anh ta nào có thể xứng đáng là đối thủ của linh mục Lôi. Vậy nên, giao chiến không lâu, họ Hạng đã nhanh chóng bại trận, cuối cùng còn bị miệng lưỡi của linh mục Lôi tấn công, đến cả sức phản công cũng chẳng có, mà chỉ đành lấy “Dao sắt” gầm lên hăm dọa linh mục Lôi: “Ngày mai lấy dao moi tim ngài ra!

Những trận chiến mệt mỏi như thế cứ tiếp diễn hơn một tháng. Họ Hạng mỗi lần đến luôn là với “Bộ mặt thiên sứ”, nhưng lại luôn trở về với “Khuôn mặt hung tợn của quỷ dữ”.

Sau khi linh mục Lôi qua đời, có người nghi ngờ Cộng Sản đã hạ độc mãn tính trong thực phẩm của linh mục Lôi. Kỳ thực, theo tôi thấy, chẳng cần bất cứ loại thuốc độc nào, chỉ riêng sự tra tấn mệt mỏi của những giờ “Thuyết giáo”, thì cũng có thể đặt ngài ấy vào chỗ chết rồi.

NHẤT ĐỊNH NÓI SỰ THẬT

Khi linh mục Lôi bị giam giữ trong nhà tù Cộng sản, có một ngày đột nhiên nghe nói, 18 tu sĩ mà một tháng trước ngài ấy từ Tấn Thành điện thoại gọi đến núi Thái Hành, trên đường cũng bị cộng sản bắt giữ, 12 người trong số đó đã bị xử tử (có người nói là bị chôn sống, có người nói là bị dao chém). Tin xấu bất ngờ xảy ra này không chỉ là một quả bom, khiến thần sắc thất kinh của linh mục Lôi ra như hôn mê vậy. Sau đó, ngài ấy đã định thần lại, và lẩm bẩm nói: “Không thể được! Đó là điều không thể! Chu Đức không phải đã từng cam kết hợp tác với Công Giáo sao? Đó là tin vịt thôi!”

Sau một lúc, họ Hạng, cán bộ chính trị của Cộng sản  lại đến lên “Lớp tẩy não” cho tù nhân, linh mục Lôi sau khi từ trong việc họ Hạng đã chứng thực tin tức không may kể trên, thì khóc nức nở. Những thành viên Đoàn giám sát cùng bị giam giữ cũng theo đó mà khóc nghẹn. Nhà giam vốn dĩ là nơi đầy u ám, nhưng hiện nay lại trông càng thảm thiết và bi thương hơn. Họ Hạng cũng rất biết điều, anh ta nhìn thấy hiện trường bi thảm ấy, cũng không tiếp tục lên “Lớp tẩy não” nữa, mà chậm chậm rời đi.

Ước chừng qua khoảng hơn mười phút, linh mục Lôi với ý chí mạnh mẽ đã cưỡng chế cảm xúc, lau đi những giọt nước mắt, cầm lấy bút lông, viết cho Chu Đức một phong thư, nhắc lại sự đảm bảo “Không bức hại tu sĩ Công giáo” mà Chu Đức đã từng thực hiện, kêu ông ta sớm ngày phóng thích 5 tu sĩ bị bắt giữ ở Lăng Xuyên, và đem thứ tự do vô giá của nhân sinh trả lại cho chúng tôi.

Ngoài dự kiến, lần này Chu Đức rất nhanh thì đã trả lời thư, và kèm theo những lời rất không khách khí, đại ý là: “Ông Lôi, ông phải biết và cũng phải thừa nhận ông là đã bị người ta lợi dụng. Dù gì ông cũng là người tốt, lần này tha cho ông. Ông nếu không thay đổi thái độ, lần sau rơi vào tay tôi, khả năng là sẽ không khách khí nữa đâu!

Linh mục Lôi đọc xong thư hồi đáp của Chu Đức, theo bản năng nói lẩm bẩm một mình: Chu Đức ơi! Chu Đức! Tôi hôm nay mới nhận rõ bộ mặt đích thực của Cộng sản các ông cũng như cả ông nữa, tôi phải vạch trần bộ mặt dối trá của các ông, đem chiến lược “Bảy phần phát triển tổ chức, hai phần ứng phó Quốc Quân, một phần kháng chiến chống Nhật” của các ông công bố cho toàn dân thiên hạ.

Đáng tiếc, sau khi linh mục Lôi được phóng thích thì liền nằm trên giường bệnh, và hơn 2 tháng sau thì qua đời. Tập hồi ký “nội tình Trung Cộng” mà ngài ấy dự kiến viết cũng chưa được thực hiện, thật là nuối tiếc vạn phần!

Chu Đức đã quyết định phóng thích linh mục Lôi và các thành viên Đoàn giám sát. Đây chẳng phải là do ông ta sợ hãi những lời chỉ trích của dư luận. Da mặt ông ta vừa đen vừa dày, nào có biết “Lễ nghĩa liêm sỉ” là gì đâu, ông ta chỉ biết “Sức mạnh”, ông ta tự biết vây cánh vẫn chưa đầy đủ, ông ta sợ sức mạnh của quốc quân. Linh mục Lôi thành thử ra mới có thể thoát nguy, lúc hoàn toàn là do sự giúp sức của Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch, Ủy viên trưởng đã lấy danh nghĩa Hội trưởng Hội ủy viên quân sự, nhiều lần lệnh cho Chu Đức (Tổng tư lệnh Quân đoàn 18) nhanh chóng phóng thích linh mục Lôi, mới khiến linh mục Lôi không chết ở trong ngục.

Ngày 7 tháng 4 năm 29, Lưu Bá Thừa theo lệnh của Chu Đức, trước tiên phóng thích hai mươi mấy vị đoàn viên Đoàn giám sát và 5 vị tu sĩ bị bắt giam trước đó tại Lăng Xuyên — vốn dĩ là 18 vị, nhưng 12 vị đã bị xử tử, còn một vị chết bệnh trong nhà giam, nhưng lại không lập tức trả tự do cho linh mục Lôi và hai vị tu sỹ kề cận với ngài, điều này khiến linh mục Lôi phải chịu thêm mấy ngày khổ sở lo lắng.

Tới ngày 13 tháng 4, họ hạng, cán bộ chính trị nói với linh mục Lôi, lưu sư trưởng tối nay muốn thiết tiệc chiêu đãi ông và hai tu sĩ tùy tùng của ông. Linh mục Lôi biết ngày bản thân được tự do không còn xa nữa; niềm vui sướng trong lòng thật không lời nào tả xiết.

Mỗi một cán bộ Cộng sản đều sẽ biểu diễn hí kịch, đều sẽ có muôn hình khuôn mặt khác nhau. Lưu Bá Thừa trong bữa tiệc đã khoác lên một khuôn mặt “Thân thiện và nồng nhiệt”, mặt mày rạng rỡ lần lượt kính rượu và mời linh mục Lôi dùng thức ăn. Linh mục Lôi không uống rượu, nên lấy thức ăn đáp lễ. Lời họ Lưu tâng bốc linh mục Lôi thậm chí còn nhất quán hơn. Khi tiễn ra về sau bữa cơm, Lưu Bá Thừa vẫn mặt dày nói với linh mục Lôi: “Lôi tiên sinh, chúng ta là bạn tốt; nếu lại ghé nơi này của chúng tôi, tôi nhất định sẽ chiêu đãi ngài phong phú hơn nữa… Ngài nếu có đi Trùng Khánh, gặp mặt Tưởng tiên sinh, xin thay tôi hỏi thăm ông ấy, cũng xin ngài ở trước mặt ông ấy nói thêm đôi lời tốt đẹp về tôi”. Linh mục Lôi cũng nở nụ cười, vỗ vai Lưu Bá Thừa, nói: “Sư trưởng, xin yên tâm, sau khi gặp Ủy viên trưởng, tôi nhất định sẽ nói lời thực!

Trước khi đi ngủ, họ Hạng đưa đến cho linh mục Lôi 200 đồng lộ phí, và nói linh mục Lôi chuẩn bị sẵn sàng sáng ngày mai sẽ xuất phát, trở về nơi ở của bản thân.

Ngày hôm sau, họ Hạng cùng với hai người Cộng sản khác, đích thân hộ tống linh mục Lôi và hai vị tu sĩ rời khỏi khu vực khống chế của Cộng sản. Đi được 3 ngày, đến ngày 16 tháng 4 đã tới Diêu Thôn, Lâm Huyện, nơi đồn trú của quân đoàn 5 mới, thì họ Hạng mới rời đi. Lúc này, linh mục Lôi mới hoàn toàn thoát khỏi tự do.

Sau này, khi linh mục Lôi nằm trên giường bệnh Quân y tại Lạc Dương, ngài ấy có nói với những người bạn hữu đến thăm ngài: “Khi tôi gặp Ủy viên trưởng, nhất định sẽ đem thực tình của cộng quân báo cáo với ngài ấy”. Hối tiếc vô cùng! 70 ngày Sau khi linh mục Lôi thoát hiểm thì đã rời khỏi thế gian này, chẳng có cơ hội báo cáo tình hình thực tế của Cộng quân với vị lãnh đạo cao nhất rồi!

VUI BUỒN LẦN LỘN

Sau khi linh mục Lôi được phóng thích khỏi nhà giam Trung Cộng vào ngày 13 tháng 4 năm 29 Dân quốc, đi đường 2 ngày, tới ngày 16 mới trở về tới Diêu Thôn, nơi cư trú trước đó của linh mục Lôi. Các tướng lĩnh ở chiến khu núi Thái Hành nghe tin linh mục Lôi được trả tự do, ai ai cũng vui mừng khôn xiết, lần lượt chúc mừng ngài ấy. Có người đích thân đến Diêu thôn mặt đối mặt chúc mừng; có người lại phái chuyên viên mang thư đến thăm hỏi; có người còn mời ngài ấy đi dự tiệc. Linh mục Lôi quên hết mệt mỏi của bản thân, bất chấp cả những cơn đau trong linh hồn cũng như thể xác, để mọi người được vui vẻ, ngài ấy đồng ý tiếp kiến và đáp ứng lời mời dự tiệc của tất cả.

Sau khi linh mục Lôi trở lại Diêu Thôn vào ngày 16, Lưu Tĩnh Trình, một giáo dân Thiên Tân, Tham mưu Quân đoàn 27, có độ cũng muốn gia nhập Dòng Gioan Tẩy Giả, lập tức từ bộ chỉ huy Quân đoàn 5 mới gửi một điện thư cho Bộ chỉ huy Đoàn giám sát chúng tôi, nói: “… Linh mục Lôi đã thoát nguy, hiện đã an toàn ở Diêu Thôn…”.

Thành viên đội công tác gần đó và Bộ chỉ huy Đoàn giám sát nghe được tin tức tốt lành này, thì vui mừng khó tả như điên như dại vậy. Có một vị giáo dân vui mừng quá độ, máu nóng đã lan khắp não bộ, anh ta vừa chạy vừa la lớn: “Tôi đi mua pháo, phải nhiệt liệt ăn mừng việc này mới được!”. May là bị một đoàn viên điềm đạm bên cạnh ngăn lại, không thôi sẽ không biết đã làm ra chuyện ngu ngốc gì rồi; bởi vì tiền phương không thể tùy tiện nổ pháo.

Ngày hôm sau, linh mục Dương Học Triết, linh mục tuyên úy, hướng dẫn chúng tôi dâng một Thánh Lễ Tạ Ơn cho linh mục Lôi. Sau thánh lễ, 5 người đoàn viên có chức vụ cao cấp nhất của chúng tôi đã mở một cuộc họp, quyết định phái một đội trưởng dẫn dắt ba người khác tới núi Thái Hành đón linh mục Lôi và Bộ chỉ huy Đoàn giám sát nghỉ ngơi, đồng thời cũng đem quyết nghị ngày điện báo cho linh mục Lôi.

Đại diện Đoàn giám sát đi đón linh mục Lôi sắp sửa khởi hành lên đường, thì đột nhiên quân Nhật từ Trường Chi dọc theo con đường lớn xuống phía nam, đồng loạt ồ ạt tấn công một dải Tấn Thành Dương Thành. Cục quan trưởng vì để bảo toàn sức mạnh kháng chiến trường kỳ, lệnh cho quân giữ thành rút lui, tới những điểm cao phía tây nam và đông nam của thành để tiện giám giát động tĩnh của quân địch. Vì thế, Đoàn giám sát chúng tôi cũng theo quân di chuyển về phía nam của thành, tạm thời công tác ở những nơi biên giới giữa Sơn Tây và Hà Nam. Việc phái người đi đón linh mục Lôi không thể không tạm thời dừng lại.

Sự đột biến trong thế trận này khiến niềm vui “Linh mục Lôi tái sinh” của mọi người, đã bị phủ lên một lớp lo lắng âm thầm.

Lại nói linh mục Lôi ở Diêu Thôn, núi Thái Hành, với cái thân thể đa bệnh lại mới bị giam giữ trong tù hơn 40 ngày, việc phải trèo đèo lội suối cũng như cả ngày mệt nhọc tiếp khách, khiến cho thân thể ngài ấy ngày càng kiệt quê. Ngài ấy cảm thấy bệnh tật của bản thân càng ngày càng thêm nghiêm trọng.

Tướng quân Bàng Bính Huân, Quân đoàn trưởng Quân đoàn 40 là một bạn hữu từ lâu của linh mục Lôi. Ngài ấy nghe nói linh mục Lôi thoát hiểm trở về, thì nhất định muốn làm bữa tiệc tẩy trần an ủi, cũng như thừa cơ có nhiều thời gian trò chuyện với linh mục Lôi. Linh mục Lôi mặc dù cảm thấy sức khỏe của bản thân ngày càng đi xuống, nhưng trước tấm chân tình của bằng hữu, ngài ấy liền đồng ý chuẩn bị thời gian qua với bạn một chuyến.

Từ Diêu Thôn đến Bộ chỉ huy Quân đoàn 40 cần phải đi qua một ngọn núi nhỏ. Đường thời đã vào giao mùa xuân hạ, thời tiết rất ấm áp. Khi linh mục Lôi trèo đến đỉnh núi, người đau cộng thêm mồ hôi nhễ nhại, lại thêm gió lạnh thổi đến, thân thể yếu ớt của ngài ấy vì bị nhiễm phong hàn mà khuẩn bệnh thừa cơ xâm nhập, khiến cho bệnh tật của ngài ấy càng thêm vô phương chữa trị. Ngài ấy nói với tu sĩ kề cận: “Xong rồi! cha cảm thấy bệnh của cha đã rất nghiêm trọng, có chút không thể trụ vững nữa rồi”.

Bành tướng quân nhìn thấy tình hình yếu nhược này của linh mục Lôi, sau khi nói vài lời chúc mừng “Xã giao”, liền thúc giục ngài ấy mau chóng tới bệnh viện ở đại hậu phương chữa trị, còn bản thân Bành tướng quân sẽ tận dụng mọi phương pháp có thể để hiệp trợ linh mục Lôi lên đường.

Lúc ấy, Tấn Thành đã bị thất thủ, Bộ chỉ huy đoàn giám sát cũng đã di chuyển theo quân tới những điểm cao mà chẳng có nơi dừng chân cố định; nên kế hoạch trở lại Bộ chỉ huy Đoàn cũng không thể thực hiện được. Trải qua nhiều lần suy nghĩ, cuối cùng quyết định qua sông Hoàng Hà tới Lạc Dương chữa bệnh.

Phương tiện giao thông qua Lạc Dương chẳng có khó khăn, Bành tướng quân chuẩn bị cho linh mục Lôi một con ngựa; còn giáo dân ở đó lại càng anh dũng hơn, họ chuẩn bị cho linh mục Lôi một cái cáng, để sẵn sàng cáng linh mục Lôi khi cần thiết. Nhưng, do quân Nhật đã khống chế đường lớn từ Trường Chi tới bác ái; vì thế, để đi tới Lạc Dương, bất luận là đi con đường nào đều cũng phải đi qua đường phòng tuyến của quân Nhật. Đây thật là một nan đề rất lớn vậy.

Tham mưu Lưu Tĩnh Trình mà chúng ta đã nhắc trước đó là một sĩ quan tài giỏi và dày dạn kinh nghiệm trận mạc, hơn nữa lại nhiều lần công tác ở phía sau địch. Nên đối với việc vượt qua những phòng tuyến của quân địch có thể gọi là bậc thầy. Anh ta tự đứng ra nhận nhiệm vụ dẫn đường; thượng cấp của anh ta, tướng quân Phan Hán Kiệt cũng là một bằng hữu của linh mục Lôi, tự nhiên cũng đồng ý để anh ta đi hiệp trợ linh mục Lôi; và như thế lập tức xuất phát lên đường.

Nguy hiểm gian nan trên con dường ấy là không thể kể hết. Linh mục Lôi có khi cưỡi ngựa, có khi ngồi cáng, có khi gặp phải mương rãnh hoặc những con đường nhỏ quanh co, thì luôn có hai vị tu sĩ kề cận giúp đỡ ngài ấy băng qua. Đi rồi lại đi, tới ngày thứ 5 mới đi được phòng tuyến của địch. Ngựa và cáng là những thứ rất lớn, không dễ để qua mắt quân địch, nên xin bọn họ đem ngược lại về nhà.

Tham mưu Lưu quyết định nửa đêm sẽ băng qua phòng tuyến địch. Anh ta tay cầm hai khẩu súng đi phía trước thám thính đường, rồi lại ngoảnh đầu ra hiệu cho chúng tôi bò xổm âm thầm tiến về phía trước. Khi đi qua chiến hào của địch, linh mục Lôi bị trượt chân, liền ngã xuống chiến hào; may là độ sâu không lớn nên không có bị trọng thương, cũng chẳng bị lính canh của địch phát hiện.

Đi qua tuyến phòng ngự rồi, tham mưu Lưu quỳ xuống đất cầu nguyện: “Cảm tạ Thiên Chúa!” linh mục Lôi và hai vị tu sĩ cảm động nước mắt không ngừng rơi lã chã.

LỆ ANH HÙNG

Đầu tháng 5 năm 29, linh mục Lôi dưới sự hiệp trợ và dẫn dắt của tham mưu Lưu Tĩnh Trình, từ chiến khu núi Thái Hành đã an toàn đi qua các tuyến phòng bị của quân địch, đi tới đất của Quốc Quân ở phía bắc của Hà Nam. Bởi vì nhất thời chưa thể thám thính ra nơi đồn trú của Bộ chỉ huy Đoàn giám sát; mặt khác, cái thân thể của ngài ấy bị bệnh tật, hiểm nguy, mệt mỏi dày vò cũng sắp đến bờ vực của cái chết, nên các tu sĩ tùy tùng và tham mưu Lưu quyết định trước tiên đưa linh mục Lôi qua Hoàng Hà tới đại hậu phương chữa trị. Thị trấn quan trọng của hậu phương cách khu vực đó không xa chính là Lạc Dương Hà Nam. Thế là bọn họ tiếp tục đi, ba ngày sau là ngày 8 tháng 5 mới đi đến đích. Bọn họ trước tiên đi đến Tòa giám mục, hi vọng có thể trú nhờ qua đêm, sau đó lại tìm đến bệnh viện cầu cứu, chữa trị. Nhưng chẳng ngờ rằng, giám mục giáo phận Lạc Dương vô cùng hoan nghênh linh mục Lôi ở lại Tòa giám mục, chuẩn bị cho ngài ý phòng khách quý và còn mời bác sĩ và nữ tu ở bệnh viện của giáo phận đến chuẩn bệnh và bốc thuốc cho linh mục Lôi. Linh mục Lôi vô cùng cảm tạ và biết ơn tiếp nhận sự đãi ngộ của giám mục. Tham mưu trưởng nói với hai vị tu sĩ: “Hôm nay tôi được thở phào nhẹ nhõm rồi!”.

Sau khi đoàn giám sát tự theo quân rời Tấn Thành đến biên giới Sơn Tây và Hà Nam triển khai công việc, đồng thời cũng đem bộ chỉ huy của đoàn đặt tại một thôn ở dưới chân núi, phía bắc thành Tế Nguyên, Hà Nam. Chúng tôi chính vì sự an nguy của linh mục Lôi, mà không ngày nào không lo lắng, đột nhiên tiếp nhận điện báo quân dụng của tham mưu Lưu từ Lạc Dương gửi tới, biết linh mục Lôi đã an toàn đến Lạc Dương, con tim thấp thỏm bất an của mọi người mới chút chút bình tĩnh trở lại. Nhân viên cao cấp của Bộ chỉ huy Đoàn lập tức họp lại, quyết định mời Thư ký trưởng Tăng Hồng Quân, Cục trưởng cục tuyên chính Lý Đôn Tông, Giám đốc đài phát thanh Chu Lan Hữu và tôi, cùng tới Lạc Dương thăm hỏi linh mục Lôi vừa thoát nguy lại mang trọng bệnh; đồng thời xin ngài ấy hướng dẫn công việc của bổn đoàn.

Chúng tôi một hàng năm người, trước khi khởi hành, trời quang mây tạnh, gió xuân dễ chịu. Trước khi trời sáng, chúng tôi vui vẻ bước vào hành trình, mà còn nhanh chóng gia tăng nhịp bước, hi vọng sớm nhất có thể nhìn thấy linh mục Lôi. Không ngờ, đi tới giữa đường, thời khắc hoàng hôn đột nhiên mây đen mù mịt, mưa to bất ngờ. Chúng tôi đã chẳng có mang đồ mưa, lại cũng đi trong vùng hoang dã “Khỉ ho cò gáy”. Không chỗ trú mưa, bị nước mưa tưới ướt giống như chuột lột vậy. Mọi người không chỉ chẳng có lời báo oán, mà còn nói với nhau một cách hài hước: “Tốt rồi, bây giờ chúng ta mới có tư cách đi gặp linh mục Lôi; đi gặp gỡ “Người khổ hạnh”, trước tiên ắt phải chịu một chút khổ hạnh ha!” nói đoạn, mọi người đều cười vang, trực tiếp quên đi sự nhớp nháp của toàn thân.

Ngày hôm sau, khi chúng tôi đến Lạc Dương, trời đã muộn, Thư ký trưởng Tăng Hồng Quân liền tìm một nhà trọ trú ngụ, chuẩn bị ngày mai đi bái kiến linh mục Lôi. Tôi thân là tu sĩ, cần phải lưu trú ở Nhà thờ, đồng thời cũng muốn sớm đi gặp linh mục Lôi, liền đơn phương độc mã đi đến Tòa giám mục. Đang khi đón tiếp và dẫn tôi đi đến phòng của linh mục Lôi, linh mục Lôi lúc đó đang ngồi trên bàn chuẩn bị ăn tối; vừa thấy tôi đến, cơm cũng chẳng màng ăn, lập tức đứng lên, bước đi loạng choạng về phía tôi, rồi ôm chặt lấy tôi, nhưng một lời cũng chẳng nói. Tôi nhìn khuôn mặt tiều tụy của ngài ấy, và biểu hiện ra một cảm tình “Nửa khóc nửa cười”, trong khóe mắt vẫn còn ẩn chứa hai dòng châu lệ chua xót muốn rơi nhưng chưa thể rơi. A! Mười mấy năm trở lại đây, để truyền giáo, để cứu quốc, để cứu người… đã đi khắp nơi, nên thường lạc quan, thường tích cực, không biết gì là mệt mỏi. Hiện nay đã bệnh đến như vậy! Tôi nhất thời cũng cảm thấy ngàn vạn cảm tình, có lời những ngàn vạn không thể nói ra được. Hai người yên lặng nhìn nhau ít phút, vẫn là do tôi phá vỡ sự trầm mặc này trước:

—- Trước tiên ăn cơm đã nào!

—- Gặp con, liền không muốn ăn cơm nữa rồi!

Nói đoạn, hai hàng châu lệ anh hùng của ngài ấy liền không ngừng lăn dài trên má.

Ngày hôm sau, Thư ký trưởng Tăng Hồng Quân; cục trưởng Lý Đôn Tông;…một hàng bốn người đến thăm hỏi linh mục Lôi. Cục trưởng Lý (gần đây do hội quân ủy điều phái đến bổn đoàn, sau khi linh mục Lôi qua đời, mọi công việc của bổn đoàn đều do anh ta đại diện xử lý), anh ta với linh mục Lôi là lần đầu tiên gặp mặt, nhưng sau khi gặp mặt, biểu tình của hai người thật giống như người thân vậy. Khi bốn người họ tới thăm, linh mục Lôi đưa cánh tay phải yếu ớt của mình, nhất nhất năm tay từng người một. Khi thư ký trưởng Tăng Hồng Quân đại diện toàn thể nhân sĩ của bổn đoàn nói với linh mục Lôi “Linh mục, ngài vất vả rồi!” linh mục Lôi không đáp lời nhưng dùng những giọt nước mắt chân thành nhất của ngài ấy để đáp lại mọi người.

Tướng quân Ngụy Lập Hoàng, Trưởng quan chiến khu đệ nhất nghe nói linh mục Lôi sau khi thoát hiểm đã đến Lạc Dương, liền lập tức phái người đến thăm hỏi, và thúc giục chúng tôi đem linh mục Lôi đến bệnh viện lục quân ở ngoại ô chữa trị. Ở đó bệnh viện đã xây dựng hoàn thiện, hơn nữa lại có nhiều danh y cũng như nhiều thuốc đặc trị. Chúng tôi được sự đồng ý của linh mục Lôi, liền bái tạ Giám mục, và lập tức đem linh mục Lôi di chuyển đến ngoại ô.

Sau khi tin tức từ các báo đài lớn nhỏ đăng tin “Linh mục Lôi ở Lạc Dương chữa bệnh”,  các tu sĩ Dòng Têrêsa và Gioan Tẩy Giả ở tiền phương và đại hậu phương, các thân sĩ, trưởng quan, bạn hữu trong ngoài tôn giáo, đều lần lượt đến bệnh viện quân y thăm hỏi linh mục Lôi.

CHIẾC GIỎ XÁCH TRÂN QUÝ

Trước đây chúng tôi đã nhắc qua, bất cứ ai vừa gặp linh mục Lôi Minh Viễn, thì giống như thỏi sắt đụng phải nam châm, lập tức bị ngài ấy hút vào; ngay cả người phản đối ngài ấy, mặc dù không tán thành kiến giải của ngài ấy, cũng kính phục nhân cách cao thượng; thái độ chân thành, tấm lòng bao dung; và khuôn mặt “Luôn vui vẻ” của ngài ấy. Ngay cả Đảng Cộng sản có khi cũng không thể không phục sát đất sự chân thành của ngài ấy —- mặc dù Đảng cộng sản không nhất định xuất phát từ chân thành. Để chứng minh cho điều ấy, ở đây cũng ghi thêm một câu chuyện nhỏ.

Giữa tháng 11 năm 27, khi chúng tôi lần đầu đi qua Trùng Khánh, ở thành phố núi trầm mặc ấy, linh mục Lôi đã phát động trận chiến tuyên truyền “Kháng chiến tới cùng, kháng chiến thắng lợi” với một Uông Tinh Vệ đang tiến hành hòa đàm với quân Nhật. Lần đó, linh mục Lôi đang diễn thuyết cho hơn 3000 người ở tòa nhà thương hội, diễn từ “Vô cùng cuốn hút nhập tâm” và biểu tình “Gây phấn chấn nhân tâm” của ngài ấy so với những tiết mục đặc sắc của những đoàn xiếc còn có sức hấp dẫn hơn rất nhiều. Hơn 6000 con mắt chăm chú tập trung hướng về phía linh mục Lôi như xuất thần; khi ngài ấy nói tới chỗ hưng phấn, mọi người giống như “Hoàn hồn”, hơn 3000 đôi tay không tự chủ mà không những vỗ vào nhau. Tân Hoa Báo, là tờ báo của Trung Cộng, lúc đó đang hợp tác với Quốc Quân kháng chiến chống Nhật, có một ký giả trẻ tầm hai mươi mấy tuổi, anh ta ghi lại toàn bộ bài diễn thuyết của linh mục Lôi, đến độ một chữ cũng không bỏ sót. Sau khi giải tán buổi diễn thuyết, anh ta cầm bản thảo tới nhà thờ Chân Nguyên, để chào hỏi linh mục Lôi. Vị thanh niên Cộng sản ấy ở trước mặt linh mục Lôi giống như đứa trẻ vậy, mở miệng là đều xưng hô “Cha” với linh mục Lôi. Khi đang trò chuyện với linh mục Lôi, nước mắt anh ta không ngừng rơm rớm, cuối cùng nói ra một câu hết sức cảm động lòng người: “Nhìn thấy cha, con lại có niềm tin mãnh liệt với kháng chiến rồi!”. Ngày hôm sau, anh ta đã cho đăng bài viết “Buổi phóng vấn lão nhân kháng chiến” dài đến hơn 4000 chữ.

Dưới đây, thứ tôi muốn kể lại là một câu chuyện cảm động về linh mục Lôi, cũng chính là chủ đề của đoạn văn này: “Chiếc túi xách trân quý”.

Tham mưu Lưu Tĩnh Trình đóng vai trò quan trọng trong cuộc thoát hiểm của linh mục Lôi. Đương thời anh ta vẫn là một vị trưởng quan trẻ, tầm 27 tuổi. Tổ tiên của anh ta là người Thiên Tân và cũng là gia đình có truyền thống Công giáo lâu đời. Bố mẹ của anh ta đều là bằng hữu của linh mục Lôi khi ngài ấy còn ở Thiên Tân truyền giáo. Khi còn nhỏ, mặc dù chưa có gặp qua linh mục Lôi, nhưng từ trong những câu chuyện của ông bà và bố mẹ, anh ta đã được nghe không ít những câu chuyện liên quan đến linh mục Lôi. Vì vậy, anh ta có một ấn tượng vô cũng sâu sắc đối với linh mục Lôi. Anh ta, một người lính trẻ đảm nhiệm chức vụ tham mưu dưới trướng của tướng quân Phan Hán Kiệt, quân đoàn 27, gần đây tình cờ gặp gỡ linh mục Lôi ở núi Thái Hành, thật sự là mới gặp mà như đã quen từ lâu, anh ta lập tức gọi linh mục Lôi là “Cha”. Anh ta mặc dù nhậm chức ở Quân đoàn 27, nhưng chỉ cần rảnh rỗi, liền chạy đến Đoàn giám sát, không chỉ trò chuyện phiếm với linh mục Lôi, mà còn giúp đỡ ngài ấy lượng giá công tác, thay ngài ấy đón tiếp “Những liên hệ xã giao”. Vài tháng ở cùng liền nghiễm nhiên đã trở thành “Chuẩn tu sĩ” của linh mục Lôi. Hiện tại anh ta còn hộ tống linh mục Lôi “Vừa thoát hiểm đã mang trọng bệnh” đi đến Lạc Dương. Mặc dù đã kết thúc một công tác hết xức trọng đại, nhưng anh ta vẫn còn một “Tâm sự trọng đại khác” cần phải giải quyết: anh ta hướng về linh mục Lôi chính thức xin gia nhập Dòng Tiểu đệ Gioan Tẩy Giả. Linh mục Lôi mang trọng bệnh nghe xong lời đề nghị của anh ta, một cách hưng phấn cảm thấy bệnh của bản thân dường như đã khỏi quá nửa, và lập tức đáp ứng thu nhận anh ta vào hội dòng, và đặt cho anh ta một cái tên mới rất dễ nghe: “Chí Chân”, tên gọi trong hội dòng của anh ta.

Đương thời, linh mục Lôi ở chiến địa thu nạp rất nhiều thanh niên tham gia hội dòng, nhưng vì không tiện làm nhà tập theo pháp định, nên trước để họ mặc áo dòng, và cùng với những tu sĩ đã phát nguyện chúng tôi làm việc ở chiến địa, đợi đến khi thắng lợi trở về tu viện, sẽ chính thức làm ‘Nhà tập”. Sau khi tham mưu Lưu quyết định gia nhập hội dòng, qua mấy ngày liền ở trước giường bệnh của linh mục Lôi cử hành nghi thức “Mặc áo dòng”.

Vị huynh đệ chí chân nhiệt thành và thông minh này, trước khi cử hành nghi thức “Mặc áo dòng”, đã khẩn cầu linh mục Lôi đổi túi xách của ngài cho anh ta, anh ta muốn đem túi sách của linh mục Lôi làm thành vật phẩm kỷ niệm “Vĩnh viễn”. Linh mục Lôi đã xúc động và ưng thuận, anh ta giống như vớ được chí bảo, liền quàng lên người trở về cùng với các đồng đội ở tiền phương.

Hơn một tháng sau, linh mục Lôi qua đời. Tôi đem di hài của ngài ấy chôn cất trong một sơn trang của ông Mã Thọ Ngụy, là một lưu học sinh Bỉ, nhà ở vùng núi Cơ Lạc, rồi trở về tiền phương. Ngày nọ, tham mưu Lưu đến gặp bàn về vấn đề ơn gọi của anh ấy. Anh ta vì chức quân trên người, mà tướng quân Phan Hán Kiệt lại nhất quyết không ưng thuận cho anh ta chuyển sang Đoàn giám sát phục vụ, anh ta dự định rời bỏ ơn gọi. Tôi đã đồng ý cách nghĩ của anh ta. Khi anh ta trả lại áo dòng, đã khẩn cầu được giữ lại chiếc túi xách của linh mục Lôi, tôi cũng đồng ý với anh ta như thế.

Tám năm sau, năm 36 Dân Quốc, Tế Nam Sơn Đông lần lượt rơi vào tay Cộng Quân, Quân đoàn 27 tan rã, tướng quân Phan Hán Kiệt bị bắt đầu hàng quân Cộng, tham mưu Lưu hóa trang đào thoát tới Bắc Bình, tường thuật cho tôi câu chuyện nguy hiểm mà anh ta làm thế nào đã thoát nguy, cuối cùng nói: “Là chiếc túi xách mà linh mục Lôi cho tôi đã cứu tôi á!”.

Mùa xuân năm 38, Bình Tân thất thủ rơi vào tay Cộng quân, tôi và một số tu sĩ khác từ Bắc Bình chạy nạn đến Hồng Kông, Lưu Tĩnh Trình cùng một số người thân cũng chạy đến “Vùng đất tự do” này. Anh ta chịu tác động sâu sắc bởi tinh thần ái quốc của linh mục Lôi, một lòng muốn tham gia hàng ngũ “Phản Cộng Phục Quốc”. Khi lưu tĩnh trình đào thoát khỏi khu vực cộng quân vùng Tế Nam, trên đường tìm sự sống, đã định với lý Mịch[3], một giao ước đồng cam cộng khổ, quyết định đầu quân cho tướng quân họ lý. Anh ta đem người nhà lưu lại trong trại tị nạn Điều Cảnh Lĩnh ở Hồng Kông, hai người con trai của anh ta thì đi học trong trường tiểu học Minh Viễn mà tôi mới thành lập. Bản thân anh ta đã đi lên vùng biên giới Trung Miên. Thời gian đầu không ngừng biên thư gửi người nhà, nhưng từ năm 39 đến nay đã bặt vô âm tín. Vợ con anh ta cùng ở lại Hồng Kông sinh sống; người con trai Lưu Thiếu Bá du học ở Pháp, đạt học vị Giáo sư Y khoa, sau đó vào tháng 9 năm 65 thì trở về nước, phục vụ trong bệnh viện Canh Tân ở Đài Bắc. Khi anh ta đến Đài Loan, anh ta cũng mang theo “báu vật” mà cha anh ta đã lưu lại cho anh ta – chính là chiếc túi sách của linh mục Lôi. Sau này, anh ta đem chiếc túi ấy tặng lại cho bổn hội chúng tôi. Chiếc túi đó hiện nay được giữ tại Chân Phúc Viện Đài Trung, Đài Loan.

CUỘC CHIẾN TRÊN GIƯỜNG BỆNH

Ba năm trở lại đây, với lòng tin tưởng mạnh mẽ, với tinh thần phấn chấn không biết mệt mỏi, linh mục Lôi giống như rồng như hổ, đã làm nên bao kỳ tích vang chấn khắp chiến khu núi Trung Điều cũng như núi Thái Hành. Tuy nhiên đời thì không như mơ, việc tốt thì thường không kéo dài lâu, Ông lão thanh niên kháng Nhật ấy đã bị Cộng quân bức hại, đến nỗi không thể không chuyển dịch trận địa. Hiện ông lão thanh niên ấy đang nằm trên giường chiến đấu trận chiến sinh tử với quỷ bệnh.

Linh mục Lôi cuối cùng là mắc bệnh gì vậy? Kinh qua không ít danh y đông tây chuẩn trị, cũng đã dùng không ít thuốc đặc trị tây đông, cho tới khi ngài ấy qua đời, bất cứ bác sĩ nào chuẩn bệnh cho ngài ấy cũng chẳng thể nói ra được tên bệnh mà ngài ấy mắc phải, chúng tôi chỉ đành gọi nó là “Bệnh hiểm nghèo”. Khi tôi từ tiền phướng đến Lạc Dương thăm ngài ấy, câu đầu tiên ngài nói chính là: “Eo của cha rất là đau, sắp không trụ được nữa rồi!”. Các bác sĩ ngoài tiêm thuốc, châm cứu và cho ngài ấy uống thuốc, còn bảo tôi đem cám gạo rang lên, quấn vào trong lớp vải, đắp lên phần eo cho ngài. Nhưng, sau khi nhiệt tan, chứng đau vẫn lại hành hạ ngài ấy như lúc đầu. Thế là tôi và một tu sĩ khác, tên là Phương An, thay nhau rang cám gạo đắp cho ngài ấy, để giảm bớt đau đớn. Nhưng phương pháp trị đằng ngọn này cũng nhanh chóng mất đi tác dụng.

Lôi Minh Viễn, cường nhân cả đời kiên trì khắc khổ, không bao giờ ta thán nửa lời, giờ đây cũng chẳng thể ngăn nổi những tiếng rên rỉ thành lời: “Chúa Giêsu à! Đau quá thôi!”. Những âm thanh rên rỉ ấy vô cùng trầm thấp, tuyệt không phải là những lời thở than báo oán, nhưng đó là cách linh mục Lôi đang nỗ lực khống chế bản thân. Mỗi lần bác sĩ phát hiện tình trạng như vậy của linh mục Lôi, thì đều nói với ngài ấy: “Linh mục à! Ngài có thể kêu lớn tiếng một chút, điều đó sẽ có nhiều ích lợi đối với hô hấp của ngài”. Nhưng ngài ấy vẫn không nguyện mất đi cái tu dưỡng, vẫn “Tự cưỡng chế bản thân”, và vẫn là rên rỉ nhè nhẹ trầm thấp.

Bác sĩ vì để giảm bớt đau đớn cho ngài ấy, để ngài ấy có những giờ phút nghỉ ngơi an yên, nên đã gọi tôi cứ cách 4h lại tiêm cho ngài ấy thuốc giảm đau. Qua được một ngày, lại đổi thành cách 2h lại tiêm một lần. Lại qua thêm một ngày, sau khi tiêm chưa tới một giờ, linh mục Lôi liền hỏi: “2h đã trôi qua rồi sao?” nếu tôi theo sự thật mà trả lời, nét mặt đau khổ của ngài ấy sẽ phủ lên một đám mây u ám của sự thất vọng. Nói đoạn, ngài ấy nhỏ giọng nói với tôi: “Eo của cha dường như có 7 con quỷ đang đánh nhau vậy!”.

Ý chí “Cầu sinh” của linh mục Lôi vạn phần cường liệt, ngài ấy không nhẫn chịu sự chi phối của quỷ bệnh, nên dùng mọi phương pháp tìm đường sống cho bản thân. Đương nhiên, ngài ấy luôn ở trong điều kiện “Vâng theo thánh ý Chúa” để phấn đấu “Gìn giữ sinh mạng”. Ngày nọ, sau khi tiêm thuốc giảm đau, tinh thần của ngài ấy tốt hơn chút, tôi hỏi ngài tình hình ở trong nhà giam của Cộng Sản, ngài ấy trả lời: “Đợi bệnh của cha tiến triển tốt một chút, chúng ta sẽ đến tu viện Dòng Biển Đức ở Tây Sơn, Thuận Thanh, Tứ Xuyên, và trú ngụ ở đó cả tháng, để đem tất cả chân tướng của Đảng Cộng Sản viết ra. Cha lần này ở trong khu vực Cộng Sản hơn 40 ngày, đối với bộ mặt thật của Cộng Sản cũng có những nhận thức rất rõ ràng rồi”.

Tôi cảm thấy lo lắng đối với tính khả thi của những lời này, liền nói với ngài ấy: “Cha có thể kể ngay bây giờ, con lập tức viết lại, không được sao?” ngài ấy cười cười nói: “Không! Đợi cha khỏe lại đã, cha muốn chính mình viết. Cha còn muốn gặp gỡ Ủy viên trưởng, ở trên Đài phát thanh Trùng Khánh thiết lập một chương trình “Chân tướng Cộng Sản”, để vạch trần bộ mặt đích thực của Cộng sản cho toàn thế giới!”.

Linh mục Lôi giờ đây giống như ngọn nến tàn đong đưa trước gió, bất cứ lúc nào cũng có thể vụt tắt; nhưng niềm tin và quyết tâm nhất định “Sẽ sống trở lại” của ngài ấy, khiến cho ngài như có thêm sức mạnh để chiến đấu và vật lộn với quỷ bệnh cũng như thần chết.

Khoảng ngày thứ năm khi tôi đến Lạc Dương, sáng sớm tỉnh dậy, đột nhiên phát hiện nhãn cầu của linh mục Lôi trở nên vàng như lòng đỏ trứng gà vậy; da dẻ của ngài ấy cũng vàng hơn trước đây rất nhiều. Cẩn thận xem cái ga giường màu trắng cũng phát hiện những đốm vàng nhỏ nhỏ— trong mồ hôi đã có dịch mật, mà phân thì lại trắng như là vôi sống. Có lúc bụng của ngài ấy lại trương phình như cái trống, eo thì đau như ai cắt. Tây y chuẩn đoán là tắc nghẽn ống mật, nhưng vật cản trở là sỏi hay là u thì họ không dám khẳng định; Trung y nói ngài ấy là do “Tâm lực tiều tụy, gan mật tổn thương, bệnh ngài ấy mắc phải là bệnh vàng da”.

Sau khi tiêm thuốc giảm đau, khi đau đơn giảm nhẹ đi một chút, ngài ấy vẫn nói đùa với mọi người đến thăm ngài ấy: “Bây giờ tôi có thể thật sự là người Trung Quốc rồi, tôi đã trở nên vàng như thế này rồi nè!

Thật là trùng hợp, có một vị giáo dân ở Thiên Tân, tổ truyền Trung y, sau biến sự “Thất thất” đã chạy khỏi Thiên Tân đến Lạc Dương định cư, và ở đây có hành nghề y và có mở một tiệm thuốc Trung y. Anh ta nghe nói linh mục Lôi dưỡng bệnh ở đây, nên đặc biệt đến nhà thờ thăm hỏi. Anh ta vừa nhìn thấy sắc mặt của linh mục Lôi, vừa không hoảng loạn lại vô cùng chắc chắc nói: “Đây là bệnh vàng da, ba thang thuốc là khỏi!”. Linh mục Lôi nghe những lời này thì hưng phấn vô cùng. Chúng tôi ở bên cạnh cũng chia sẻ niềm vui này với ngài. Hơn nữa, Tây y cũng cho phép ngài ấy dùng Trung y chữa trị.

Sau ba ngày, ba thang thuốc cũng đã dùng qua, nhưng bệnh tình của linh mục Lôi vẫn không có chút khởi sắc. Vị thầy thuốc Trung y đó cũng cảm thấy lực bất tòng tâm; hi vọng của chúng tôi cũng liền theo “Cái lắc đầu” của anh ta trôi tuột ra xa, mà trở thành ảo ảnh.

Sau khi Trung y thất bại, chúng tôi theo sự phân phó của Tướng quân Ngụy Lập Hoàng, trưởng quan chiến khu 1, đem linh mục Lôi đến Bệnh viện Lục Quân ở ngoại ô, dưới sự hiệp trợ của Bác sĩ Giáo sư Chủ nhiệm Bệnh viện Dương Bào Chân, linh mục Lôi lại chuyện dịch chiến địa, tiếp tục trận chiến đẫm máu với quỷ bệnh!

THỜI CƠ MẤT ĐI

“Sau khi Chu Ân Lai chết, các tờ báo trên thế giới không chỉ đăng tin “Khí số đã tận” của ông ta, mà còn đăng nhiều bài bình luận đối với cuộc đời của ông ta. Gần đây, khi tờ báo American Sunday Guest bình luận về họ Chu, đã nhắc đến một đoạn chuyện cũ giữa anh ta và linh mục Lôi Minh Viễn. Chúng tôi đem nó dịch ra tiếng Trung, và cũng ghi lại trong quyển sách này. Và ở quyển sách này, chúng tôi cũng đem mấy điểm ngộ nhận phanh phui và giải thích rõ ràng.

Cái chết của Chu Ân Lai, ngụy thủ tướng của Trung Cộng, làm cho Giáo hội cũng như Phương Tây nghĩ về một cơ hội đã bị bở lỡ. Giả dụ lúc đầu có thể nắm bắt cơ hội này, toàn thể lịch sử có thể đã viết lại từ đầu. Báo ấy viết rằng:

Lúc ấy, họ Chu là một du học sinh người Trung Quốc, đã giành được một phần học bổng do chính phủ Pháp tặng, và đi đến Phương Tây du học. Sau khi anh ta và các du học sinh khác đến Pháp không lâu, chính phủ Pháp, những người duy trì kế hoạch trao học bổng này thất thế và lụn bại, khiến cho những học sinh này đột nhiên rơi vào hoàn cảnh hết sức khó khăn. Trên thân không xu dính túi, họ phải làm sao đây? tình cảnh thật khó xử! tiến thoái lưỡng nan. Linh mục Lôi Minh Viễn, một tu sĩ truyền giáo trẻ mới từ Trung Quốc trở về Châu Âu nghỉ hè, và đã gặp mặt Chu Ân Lai.

Mấy đồng tiền linh mục Lôi Minh Viễn đem trên người đều tặng cho chàng trai trẻ du học sinh người Trung Quốc này. Linh mục Lôi biết mấy đồng tiền này chẳng qua cũng chỉ là như muối bỏ bể, cùng lắm cũng chỉ có thể duy trì phí sinh hoạt trong vài ngày mà thôi; do đó, ngài ấy hào phóng gỡ luôn món quà mà cha mẹ ngài ấy tặng, đó là một chiếc đồng hồ, tặng lại cho Chu Ân Lai, và muốn họ Chu đem chiếc đồng hồ ấy đi bán, đổi lấy đồ ăn chống đói. Linh mục Lôi Minh Viễn không lâu sau đó đã trở lại Trung Quốc, và Chu Ân Lai cuối cùng đã trở thành thứ đồ vật trong túi của Đảng Cộng Sản Pháp.

Nhiều năm sau, khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, linh mục Lôi đã thành lập một Hội dòng Bản địa, Dòng Tiểu Đệ Thánh Gioan Tẩy Giả ở phía bắc Trung Quốc, để dấn thân vào công việc cứu giúp thương binh. Và trong thời gian ngắn những tu sĩ ấy đã trở thành thành viên của Cộng Sản Đảng. Lúc đầu, tất cả đều thiện hảo, những tiểu đệ đã anh dũng dấn thân vào công việc cứu thương. Không lâu, Mao Trạch Đông hạ lệnh phê phán các tiểu đệ, nói các tiểu đệ có suy nghĩ lệch lạc, nên các tiểu đệ bị Đảng Cộng Sản bắt giam và xử tử cách vô cớ. Linh mục Lôi cũng bị cảnh sản bắt nhốt trong tù.

Tổng thống Tưởng Giới Thạch đương thời là Ủy viên trưởng Hội Ủy viên Quân sự vô cùng quý mến linh mục Lôi. Sau khi biết tin tức linh mục Lôi bị bắt, tổng thống Tưởng đã bí mật thương lượng với Chu Ân Lai tại Trùng Khánh. Trải qua mấy lần thương lượng, cuối cùng đã đạt được một bảo chứng an toàn, rồi phái chuyên cơ đi vào khu vực Cộng sản chiếm lĩnh đón linh mục Lôi. Linh mục Lôi an toàn bay đến Trùng Khánh, không tới mấy ngày thì “Tang thương vụn vỡ như quốc dân nói mà qua đời.

Chẳng trách có người nói, nếu lúc đó linh mục Lôi có thể có nhiều thời gian hơn chăm sóc Chu Ân Lai, hoặc là Tây Phương không khiến cho một du học sinh người Trung Quốc rời bỏ quê hương, rồi rơi vào trong sự khó khăn kinh tế, đến mức Cộng Sản Pháp thừa cơ chiêu nạp, thì lịch sử nhân loại có lẽ đã phải viết lại cũng nên.

****

Nội dung chủ yếu của câu chuyện trên đây, quả thực đều là những sự kiện lịch sử mà ai ai cũng biết. Nhưng có một vài chi tiết trong đó lại không phù hợp với thực tế, hoặc là ngộ nhận, hoặc là theo suy đoán chủ quan của tác giả. Ở đây sẽ nói rõ ràng để tránh nghe nhầm đồn bậy.

(-) : Trong thời kỳ kháng chiến, khi tu sĩ của bổn hội dấn thân vào công việc cứu giúp thương binh ở một dải núi Trung Điều và núi Thái Hành, đội quân mà chúng tôi lệ thuộc là Quân đoàn 3 Trung ương và Đoàn giám sát Hoa Bắc trực thuộc Hội quân ủy, chứ không có giống như trong đoạn văn nói: “Không lâu sau thì trở thành Đảng Cộng Sản”. Các tiểu đệ cũng chưa từng làm việc cho Quân đội Trung Cộng, cũng chưa chịu qua bất cứ sự phê phán nào của Đảng Cộng. Chỉ có linh mục Lôi và một số tiểu đệ (tổng cộng là 18 người, 13 người trong đó bị xử tử, 5 người còn lại được phóng thích) bị Cộng Sản bắt giam, vì Trung Cộng phản quốc, quay ngược tấn công Quốc Quân nên dẫn dến điều đó.

(–) Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch với họ Chu thương lượng ở Trùng Khánh phóng thích linh mục Lôi. Sau khi đạt được thỏa thuận, Trung Cộng vẫn chưa cho phép chuyên cơ chính phủ bay tới khu vực Cộng quân chiếm lĩnh. Sự thật là Lưu Bá Thừa phụng lệnh Chu Đức phóng thích linh mục Lôi, và để ngài ấy đi bộ rời khỏi khu vực Cộng quân tới Lạc Dương. Sau đó, chính phủ mới phái chuyên cơ tới Lạc Dương, đón một linh mục Lôi thân mang trọng bệnh tới Trùng Khánh.

* Tào Lập San* ký tên

CHỮA BỆNH CŨNG LÀ CÔNG VIỆC

Tôi gia nhập Dòng Gioan Tẩy Giả năm 17 tuổi, lần đầu tiên nghe linh mục Lôi nói: “Tôi nguyện ý chết khi đang làm việc, chứ không nguyện nằm chết trên giường bệnh”, thì câu nói ấy đã khắc vào trong linh hồn bé nhỏ của tôi một ấn tượng vô cùng sâu sắc. Sau này, ngài ấy cũng lần lượt khuyên chúng tôi phải duy trì sức khỏe thân thể bằng một ý chí kiên cường, chú trọng vệ sinh, và một đời sống hợp lý. Ngài ấy dẫn chứng câu nói của Đức Khổng Phu tử: “Ba mẹ vì bệnh tật của con cái mà u buồn”, để nhắc nhở chúng tôi phải chú ý sức khỏe, đừng để bị bệnh.

Từ đó trở đi, “Bệnh nhân” trong mắt tôi đều trở thành những người đáng được đồng cảm, đáng được thương xót an ủi, đáng được quan tâm và nâng đỡ, nhưng lại không đáng xem trọng, thậm chí là còn cảm thấy hối tiếc, không hề cảm thấy có chỗ nào tích cực đáng để học hỏi.

Không lâu sau đó, linh mục Lôi ở trong phòng bệnh của Chân Phúc Viện chúng tôi cho dán lên một biểu ngữ: “Bệnh nhân là bảo bối của tu viện”. Tôi cảm thấy biểu ngữ này rất mâu thuẫn với “Việc cẩn trọng đừng để bản thân mắc bệnh” mà trước đây ngài ấy giảng, nên đã thẳng thắn đem suy nghĩ của tôi nói với linh mục Lôi. Sau khi ngài ấy nghe, liền cười nói: “Đây nên gọi là chúng có vẻ mâu thuẫn mà thôi!”. Ngài ấy giải thích: “Trong đời sống tu đức có không ít tư tưởng và hành động, bề ngoài xem ra rất mâu thuẫn, nhưng kì thực bên trong lại rất thống nhất, không thể không gia tăng chú ý, giống như lấy “Bệnh tật” làm ví dụ: trước khi chưa bị bệnh, cần phải lấy ý chí và thái độ chịu khó chịu khổ, để thân thể duy trì khỏe mạnh, để phục vụ xã hội, hoàn thành sứ mệnh lịch sử mà Thiên Chúa giao phó cho chúng ta, đó chính là đức hạnh. Nhưng nếu không may bị bệnh, thì đừng suốt ngày kể khổ than van mà không làm gì; càng không nên oán trời giận người, lăng mạ bệnh tật. Nhưng phải đem khó chịu ấy biến thành lễ vật tinh thần dâng lên Thiên Chúa, mà kín múc ân sủng cho Giáo Hội, cho thế giới, cho Hội Dòng,… để đời sống tinh thần của nhân loại được phát triển và phồn thịnh. Như vậy có thể nói, “Bệnh tật” cũng là một loại công việc. Nói bệnh nhân (có tinh thần Kitô) là bảo bối của tu viện, không phải là điều đương nhiên sao?

Đoạn hội thoại trên của linh mục Lôi chính là nét khắc họa rất rõ ràng về thái độ sống của cả cuộc đời ngài ấy. Ngài ấy vốn lấy ý chí kiên cường, lấy ăn uống đạm bạc và bình dị, lấy việc rèn luyện thân thể cách bền bỉ (hằng ngày đều tập Thái Cực Quyền), chăm chỉ hấp thụ lấy nguồn dinh dưỡng của mặt trời, không khí và nước, khiến ngài ấy trở thành một cường nhân không biết mệt mỏi, và có hiệu suất làm việc cao hơn người bình thường không biết bao nhiêu lần.

Bây giờ ngài ấy bệnh rồi, mà lại còn bệnh rất nghiệm trọng nữa, nhưng “Tinh thần trách nhiệm” đối với công việc của ngài ấy, ép buộc ngài ấy không chỉ không nghĩ bản thân sẽ chết, mà còn tự nhiên thúc đẩy ngài ấy, sử dụng cái ý chí kiên cường tranh đấu với thần chết. Ngài ấy ở trên giường bệnh, một mặt bàn luận với tôi về kế hoạch công việc sau khi khỏi bệnh, nào là muốn đến Dòng Biển Đức để an yên viết sách: “CHÂN TƯỚNG TRUNG CỘNG”; nào là muốn san định kế hoạch mới cho công việc kháng chiến mà ngài ấy lãnh đạo; nào là muốn chỉnh lý và bổ sung những tu tưởng mới cho tiền đồ của hai hội dòng mà ngài ấy thành lập;…  mặt khác, ngài ấy cũng xem bệnh tật hiện tại của bản thân như là một công việc, ngài ấy gọi đó là “Công việc của nhẫn nại”; và tận lực dùng hết sức dấn thân vào công việc tích cực này để phục vụ con người. bây giờ tôi kể ra vài chi tiết như dưới đây:

—- Linh mục Lôi bị đặt nằm trên giường bệnh, nhìn thấy tôi vì chăm sóc ngài ấy mà cả đêm lẫn ngày đều chạy đôn chạy đáo; dường như cảm thấy có chút “Áy náy”, có lần ngài ấy đã kéo tay tôi và nói: “Con làm việc quá khổ sở rồi, mà ta chỉ ngồi mát hưởng thụ”. Tôi nói: “Cha ạ! Đừng nói như thế, “Công việc nhẫn nại” mà cha đang làm vì Giáo Hội, vì quốc gia, vì anh chị em chúng con không phải càng lớn càng nhiều hơn sao?” ngài ấy gật đầu, sau đó nhắm mắt suy tư, tiếp tục công việc nhẫn nại của ngài ấy.

—- Linh mục Lôi ở trên giường bệnh đã cử hành lễ nghi “Mặc tu phục” cho Chí Chân huynh đệ (Lưu Tĩnh Trình): chỉ cần có linh mục Lôi trú ngụ ở bệnh viện, ngài ấy vì để thành toàn “Tu đức” của bản thân, ắt sẽ mời linh mục đến phòng cử hành Thánh Lễ, ngài ấy ở trên giường bệnh tham gia Hy Tế và lãnh Thánh Thể; ngài ấy mỗi ngày đều gọi tôi đến trước giường của ngài ấy, lớn giọng đọc kinh phụng vụ hằng ngày, rồi cùng tôi hoàn thành các công việc tâm linh phải làm; ngài ấy còn lần lượt mời người khác đọc to Thánh Kinh; ngài ấy rất cẩn thận lắng nghe, rồi lặng thinh suy gẫm; có hôm, ngài ấy còn triệu tập tất cả những tu sĩ bổn hội đang chăm sóc ngài ấy đến trước giường bệnh của ngài ấy, rồi bất ngờ quỳ xuống bày tỏ xin lỗi tất cả mọi người……

—- Linh mục Lôi trước khi qua đời, có một lần đã gọi những cán bộ cao cấp của Đoàn giám sát đến Lạc Dương, ở trước giường bệnh mở cuộc họp về những công việc của Đoàn, và đã thảo luận rất nhiều những vấn đề hóc búa và hao tổn nhiều trí lực.

—- Linh mục Lôi không chỉ quan tâm đến đại nghiệp của quốc gia, mà còn chú ý đến cục diện của thế giới. Lúc này, chiến tranh thế giới thứ hai đã nổ ra ở khắp Châu Âu. Ngài ấy mỗi ngày đều xin người khác đọc tin tức trên một số nhật báo cho ngài ấy nghe. Có một lần, vì chuyện đọc báo mà làm rộn lên một trận cười lớn, số là: khoảng giờ trưa, tôi muốn đi ăn cơm trưa, nên đã nhờ một tu sĩ thay tôi chăm sóc linh mục Lôi. Ngài ấy muốn tu sĩ kia đọc báo cho mình nghe. Nhưng vì âm thanh rất nhỏ, vị tu sĩ kia nghe thành ngài ấy muốn ăn “Bánh bao”, nên hưng phấn chạy như bay tới chỗ tôi đang dùng cơm, nói: “Bệnh của linh mục Lôi có chuyển biến tốt rồi! ngài ấy muốn ăn bánh bao!”. Khi anh ta còn đang sung sướng đem một đĩa bánh bao đến, linh mục Lôi lắc lắc cái đầu, khiến anh ta rơi vào trạng thái nửa khóc nửa cười. May mắn là tôi cũng nhanh chóng theo sau anh ta, mới có thể làm dịu đi cái cục diện “Xấu hổ” ấy.

Ví dụ thực tế của “Công việc nhẫn nại” mà linh mục Lôi thể hiện trên giường bệnh vẫn còn rất nhiều, nhưng vì bài viết có hạn, nên tạm dừng lại ở đây.

CHIM SỢ CUNG

Cộng Sản Đảng quả thật đã lưu lại cho linh mục Lôi những đả kích và kinh động quá lớn và quá sâu. Đặc biệt, việc bọn họ đã sát hại 12 người anh em vô tội của ngài ấy, khiến ngài ấy bi thương vụn vỡ. Ngài ấy trên giường bệnh mỗi lần nghe thấy danh từ “Đảng Cộng Sản”, dường như chẳng có ngoại lệ, đều giống như chạm phải dòng điện, không chỉ nét mặt biểu hiện sự sợ hãi, mà còn liên tiếp rơi nước mắt.

Trong thời kỳ dưỡng bệnh ở Lạc Dương, có lần hai nữ tu Têrêsa từ Thiểm Tây đến thăm hỏi tình trạng bệnh tật của ngài ấy. Khi họ tiến vào phòng, vừa vặn linh mục Lôi cũng vừa tiêm xong thuốc giảm đau, nên tinh thần rất tốt, ngài ấy rất vui vẻ nói nói cười cười với 2 nữ tu. Ngài ấy được biết tu sĩ nam nữ ở hậu phương vì để ngài mau chóng hồi phục sức khỏe, họ đã không chỉ gia tăng cầu nguyện, mà còn thực hiện nhiều việc khắc khổ, nghiêm giữ luật dòng cách đặc biệt, khiến ngài ấy cảm thấy bệnh tình đã giảm đi quá nửa. Giữa lúc trò chuyện, một vị nữ tu đã vô tình (cũng rất là tự nhiên) nhắc đến: “Cộng Sản Đảng sao lại vô tình đến thế, nỡ lòng dày vò một lão thanh niên 60 tuổi tinh thần hoạt bát trở thành bộ dạng như này, thật sự có thể làm thế sao?” Một vị nữ tu khác cũng kích động nói: “Còn 12 tiểu đệ vô tội kia nữa, cuối cùng cũng bị bọn họ chôn sống. Cộng Sản Đảng thật sự quá tàn nhẫn rồi!

Linh mục Lôi vừa nghe những lời ấy, lập tức thu lại bộ mặt vui vẻ, hai mắt ngập ngấn lệ, khóe miệng rung rung, nhưng một lời cũng không nói, bộ dạng giống như muốn khóc nhưng lại không dám khóc. Tôi nhìn thấy tình hình chuyển xấu, lập tức từ bên cạnh nói qua chủ đề khác. Vị nữ tu kia cũng rất hiểu chuyện, nhanh chóng hiểu dụng ý của tôi, chẳng có tiếp tục nói đến những việc xấu của Đảng Cộng Sản, mới giảm bớt được nỗi sợ hãi của linh mục Lôi.

Trước đây cũng đã từng nhắc qua, lúc linh mục lÔi còn ở An Quốc-Hà Bắc truyền giáo, ngài ấy với Huyện trưởng huyện đó, Trương Ngưỡng Văn là bạn hữu thân thiết. Linh mục Lôi khi ấy đã từng lấy nhân cách làm đảm bảo, xin Huyện trưởng Trương cho phép những tù nhân là giáo dân thụ án từ mười năm trở lên, được xuất ngục tới nhà thờ tham dự Thánh Lễ Giáng Sinh năm đó. Huyện trưởng Trương đã bất chấp tính mạng, đã đáp ứng yêu cầu đáng sợ này. Điều này đủ thấy giao tình thâm sâu và sự tin tưởng lẫn nhau của hai người đã đạt đến cảnh giới tột đỉnh. Hai người họ đều là “Kiện tướng kháng Nhật”, nhưng cái nhìn đối với “Trung Cộng” lại hoàn toàn khác biệt. Huyện trưởng Trương là người cứng rắn “Chống cộng”, nhưng linh mục Lôi lúc ấy lại cho rằng “Trung Cộng” cũng là phần tử yêu nước. Hai người đối với vấn đề này có nhiều tranh luận, nhưng chưa từng tổn hại đến tình bạn sâu sắc và tin tưởng lẫn nhau của họ.

Khi huyện An Quốc sa vào tay giặc, Trương Ngưỡng Văn chạy đến Lạc Dương, liền gia nhập quân đội, tham gia công việc kháng chiến chống Nhật. Huyện trưởng Trương từ trên báo chí biết được linh mục Lôi thoát hiểm đã đến Lạc Dương, lập tức tìm đến nhà thờ à linh mục lôi trú ngụ, để ôn lại chuyện cũ. Trước khi gặp linh mục Lôi, tôi nhiều lần xin ngài ấy đừng nhắc đến vấn đề “Đảng Cộng”, tránh cho linh mục Lôi phải chịu đả kích sâu hơn. Sau khi ngài ấy đồng ý, tôi liền dẫn ngài ấy đi gặp linh mục Lôi. Sau khi hai người gặp mặt, tay nắm tay, bốn mắt nhìn nhau rất lâu mà chẳng nói năng gì. Trân trân đối mặt một lúc, vẫn là linh mục Lôi lên tiếng trước phá vỡ sự im lặng, hai mắt ngấn lệ, run rẩy nói: “Huyện trưởng tốt của tôi! Trước đây chẳng có nghe lời ngài, lầm tin Trung Cộng là phần tử yêu nước, nên bị Chu Đức lừa!” nói đoạn liền lớn tiếng khóc.

Sau khi linh mục Lôi từ nhà thờ ở Lạc Dương chuyển đến Bệnh viện Lục Quân, mặc dù phòng dưỡng bệnh là phòng tốp đầu, nhưng trong thời gian kháng chiến, tất cả đều theo nguyên tắc đơn giản, phòng tốp đầu cũng chỉ là “Phòng đơn” cách phòng bên cạnh chỉ bằng 1 tấm ván mà thôi, vậy nên tiếng trò chuyện người bên kia tường đều có thể nghe rõ ràng. Ngày nọ, linh mục Lôi giật mình tỉnh giấc chiêm bao, gọi tôi đến bên giường, kèm theo thần sắc sợ hãi và u buồn nhỏ tiếng nói với tôi: “Người nằm bên cạnh là Đảng viên Cộng Sản. Anh ta đang nói xấu cha, con phải lưu tâm!”. Tôi bình tĩnh ghé sát tai lên bức tường cẩn thận nghe ngóng ở bên kia đang nói chuyện gì. Chỉ là những lời kêu ca bình thường; không chỉ không nghe thấy tên của linh mục Lôi, và cũng chẳng có bất cứ từ ngữ nào liên quan đến ngài ấy. Tôi trở về bên giường bệnh báo cáo với ngài ấy, ngài ấy lấy tinh thần nghi ngờ nói với tôi: “Lỗ tai của con không họat động rồi”. Nói xong liền nhắm mắt đi vào giấc ngủ.

Thời gian trị bệnh hơn một tháng ở Lạc Dương, người đến thăm hỏi linh mục Lôi nhiều quá: từ lãnh đạo các giới của chính đảng, các linh mục, tổ trưởng, bạn bè trong và ngoài tôn giáo… cho đến các nhân viên cấp dưới cũng như các nam nữ đệ tử của ngài,… Ngài ấy cấm tôi cự tuyệt bất kỳ người nào đến thăm, ngài ấy muốn gặp gỡ tất cả. Do đó, tôi dù cố gắng hết sức cũng không thể dặn dò từng người từng người một đừng nhắc đến vấn đề “Đảng Cộng Sản” trước mặt linh mục Lôi. Mỗi lần nhắc đến Đảng Cộng Sản, ngài ấy đều rơi lệ như mưa.

Nhưng, linh mục Lôi cả đời “Thật yêu người”, mặc dù chẳng dấu diếm nói ra ấn tượng cuối đời của ngài đối với Đảng Cộng Sản, nhưng ngài ấy không ôm hận bọn họ. Ngài ấy không chỉ bản thân, mà còn nhiều lần khuyên bạn hữu đến thăm, cầu nguyện nhiều cho sự hối cải của Đảng Cộng Sản. Ngài ấy cũng lặp lại lời của Chúa Giêsu: “Cha à! Xin hãy tha thứ cho họ, vì họ không biết thứ họ đang làm là gì.” (Lc 33,34).

CUỘC ĐIỆN CẤP BÁCH

Từ ngày 8 tháng 5 tới ngày 9 tháng 6 năm 29, linh mục Lôi dưỡng bệnh ở Lạc Dương đã trọn vẹn một tháng rồi. Trong thời kỳ này, chúng tôi đã mời không ít các bác sỹ đến chuẩn trị cho ngài ấy: Trung y, Tây y, bác sỹ du học ở Mỹ, bác sỹ du học ở Bỉ, đơn chuẩn, hội chuẩn,… để chữa chạy cho người anh hùng kháng chiến yêu nước thương dân này. Có thể nói, mọi người đều tận sức nỗ lực cực đại rồi. Bác sĩ Tiêu Tế, lưu học sinh Bỉ mà linh mục Lôi một tay bồi dưỡng, đã tốt nghiệp Đại học Leuven, sau đó còn tiến cử đảm nhận chức vụ Viện trưởng Bệnh viện Dã chiến Quân đoàn 3, cũng đặc biệt từ núi Trung Điều đến Lạc Dương thăm khám cho linh mục Lôi. Sau nhiều lần hội chuẩn với bác sĩ chủ nhiệm Bệnh viện Lục Quân Dương Bảo Chân; cả hai đã đồng ý cho linh mục Lôi dùng nhiều loại dược phẩm quý hiếm, nhưng thân thể của linh mục Lôi lại ngày càng chuyển biến xấu, thuốc giảm đau cường độ cao cũng giảm không nổi những cơn đau dữ dội của linh mục Lôi. Ngọn đèn sắp cạn khô này, ngọn nến cháy hai đầu này, e rằng cả cái Lạc Dương này cũng tìm không thấy cao thủ y thuật cao siêu nào có thể khiến ngài ấy có thể tiếp tục tỏa sáng.

Buổi sáng ngày 9 tháng 6, bác sỹ chủ nhiệm Dương gọi tôi đến phòng làm việc của anh ta, rồi nói với tôi một cách nghiêm túc và trịnh trọng: “Chúng tôi đã dùng mọi biện pháp đối với bệnh tình của linh mục Lôi rồi, nhưng tôi phải nói là không có chút khởi sắc, hơn nữa còn có thể nói là đang cận kề khốn cảnh. Linh mục Lôi là người nổi tiếng quốc tế, là anh hùng kháng Nhật mà quân dân toàn quốc kính trọng và yêu mến, sinh mạng của ngài ấy không giống người bình thường. Tôi khuyến cáo anh nên đem ngài ấy đến Trùng Khánh. Ở đó có một vị thầy thuốc y thuật cao siêu, có thuốc cải từ hoàn sinh, có thể đến đó cứu vãn sinh mệnh đang bên bờ đích đoạn của ngài ấy, biết đâu lại có thể khỏe lại”.

Tôi đã chấp nhận kiến nghị của chủ nhiệm Dương, lập tức gửi cho Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch một bức điện khẩn, nói rõ tình trạnh “Nguy cấp” của linh mục Lôi. Mọi người có lẽ đều biết, Ủy viên trưởng luôn luôn xem trọng nhân cách của linh mục Lôi cũng như sự nghiệp văn hóa mà linh mục Lôi thực hiện ở Hoa Bắc – Báo Ích Thế; đặc biệt với công việc cứu quốc và tinh thần ái quốc mà linh mục Lôi thể hiện trong những năm gần đây lại càng khiến Ủy viên trưởng thán phục gấp bội. Ngài ấy đã tận lực cứu linh mục Lôi ra khỏi bàn tay của Cộng Sản, bây giờ nghe nói linh mục Lôi đang ở trong cơn bạo bệnh nguy kịch, liền lập tức phái thuộc hạ bay đến Lạc Dương xem xét tình trạng bệnh tình của linh mục Lôi.

Sau khi đại diện của Ủy viên trưởng bay đến Lạc Dương, thì liền trực tiếp đến Bệnh Viện Lục Quân, dừng lại khoảng 15 phút trước giường bệnh của linh mục Lôi, anh ta nắm chặt tay linh mục Lôi, nở nụ cười thân thiện và dùng những lời rất cảm động để truyền đạt những ước mong cũng như nguyện vọng tha thiết của Ủy viên trưởng đối với linh mục Lôi. Linh mục Lôi nước mắt giàn dụa cảm động không thôi, không chỉ luôn miệng nói “Đa tạ”, mà còn giống như một đứa trẻ chịu ủy khuất ở bên ngoài, khi nhìn thấy người thân, liền muốn thổ lộ tất cả những nỗi đau mà bản thân đã phải chịu. Đại diện Ủy viên trưởng nhìn thân thể linh mục Lôi yếu nhược, nói năng khó khăn, tâm tình hơn nữa lại đang kích động, sợ rằng ngài ấy sẽ chụi không nổi những đả kích mà quá khứ đã phải chịu ở trong tay Trung Cộng, nên động viên ngài ấy nghỉ ngơi cho tốt, quên đi những quá khứ muộn phiền. Anh ta vì để khiến cho tâm tình của linh mục Lôi tươi vui trở lại, đã đáp ứng sau khi trở về Trùng Khánh, lập tức phái chuyên cơ đón linh mục Lôi đến Trùng Khánh chữa trị.

Ngày 12 tháng 6, nhận được điện từ Trùng Khánh: chuyên cơ mà Ủy viên trưởng phái đến đã bay tới sân bay Lạc Dương. Đồng thời, nhân viên của sân bay Lạc Dương cũng gọi điện đến, thông báo và muốn chúng tôi 5h sáng ngày 13, sẽ đưa linh mục Lôi đến phi trường đáp chuyên cơ bay tới Trùng Khánh. Máy bay đến đón là một chiếc máy bay cỡ nhỏ, ngoài lái chính và lái phụ, chỉ còn lại 2 chỗ ngồi, linh mục Lôi chỉ có thể đem theo một người tùy tùng. Bác sỹ chủ nhiệm Dương vì sự an toàn của bệnh nhân, chủ trương để một hộ sĩ đặc biệt cùng bay với linh mục Lôi, nhưng linh mục Lôi lại kiên quyết muốn tôi cùng bay với ngài ấy. Ngài ấy mặc dù không muốn chết và cũng không muốn phải chết, nhưng ngài ấy vẫn cố chấp theo “Tình thế khách quan”, ngài ấy nói: “Vạn nhất tôi không chống đỡ nổi chấn động của máy bay, tôi nguyện chết bên cạnh “Con cái của tôi”. Chủ nhiệm Dương đáp ứng yêu cầu của linh mục Lôi, phái tôi hộ tống linh mục Lôi tới Trùng Khánh. Chủ nhiệm Dương lập tức đem kiến thức tổng quát của hộ lý dùng trong trường hợp khẩn cấp chỉ dạy cho tôi, và còn hướng dẫn tôi thực hành những luyện tập thực tế, như tiêm thuốc, châm cứu, phục vụ cho bệnh nhân uống thuốc,…

TẠM BIỆT LẠC DƯƠNG

Khoảng 4 giờ sáng ngày 13, khi những tia nắng hừng đông đầu tiên dần lộ diện, chúng tôi cũng đã tới sân bay. Người đưa tiễn rất đông: bác sỹ chủ nhiệm Dương, hộ sĩ, người phụ trách y tế, các chức sắc trong giáo hội, tu sĩ nam nữ của bổn hội, bạn hữu các giới,… mọi người đều vây quanh tứ phía chiếc máy bay nhỏ nhắn xinh xắn, mắt đưa tiễn linh mục Lôi lên máy bay. Trước khi cất cánh, tu sĩ Khai Chi, Viện trưởng Phân viện Thiểm Tây của hội dòng nói với tôi: “Lập San huynh đệ! Anh nhớ đem một vị linh mục Lôi tráng kiện, sớm ngày gửi lại cho chúng tôi nha!” mọi người cũng đều tán thành với anh ta, cao giọng nói: “Đúng rồi! Nhanh chóng đem chàng thanh niên 60 tuổi trở lại chiến địa nha!”. Tôi lúc ấy tràn đầy tự tin, không chút do dự mà đáp ứng: “Đương nhiên rồi! xin mọi người yên tâm, tôi nhất định sẽ nhanh chóng gửi lại một lão nhân kháng chiến tràn đầy sức sống”. Linh mục Lôi nghe được những lời này của tôi thì mặt mày cũng rạng rỡ hẳn lên, chốc chốc lại gật đầu mỉm cười, dường như quên đi bản thân là người đang mang trọng bệnh.

Kim giờ đã điểm đúng 5h, máy bay đã cất cánh rồi, linh mục Lôi từ trong cửa sổ vẫn huơ huơ đôi bàn tay gầy gò khẳng khiu tạm biệt những người đưa tiễn, trong miệng còn lẩm bẩm nói: “Chào Lạc Dương, hẹn gặp lại!”.

HỒI QUANG PHẢN CHIẾU

5h sáng ngày 12 tháng 6 năm 29, một chiếc máy bay nhỏ chở linh mục Lôi Minh Viễn cất cánh bay lên không trung. Đích đến là phụ đô Trùng Khánh, mục đích là để cứu chữa sinh mệnh cho vĩ nhân vang danh quốc tế, một “Ông già kháng Nhật” thân mang trọng bệnh hiểm nghèo nhưng nồng cháy tinh thần yêu nước.

Máy bay đã cất cánh rồi, linh mục Lôi từ trong cửa sổ vẫn đang rất vui vẻ quơ quơ đôi bàn tay yếu ớt chào tạm biệt những người đến đưa tiễn ngài. Tiếng động cơ ù ù đã chấn động màng nhĩ của tôi, nhịp tim của tôi cũng đã gia tăng nhịp đập, hô hấp cũng cảm thấy có chút gấp gáp. Tôi lo lắng linh mục Lôi với thể trạng yếu ớt sẽ chịu không nổi những chấn động kịch liệt này, nên liền quay sang hỏi ngài ấy: “Cha có muốn tiêm một liều thuốc an thần không?” Ngài ấy mặt mũi vui vẻ mỉn cười đáp: “Vẫn khỏe! Không cần tiêm thuốc gì đâu”. Nói đoạn, ngài ấy mở to mắt từ kính cửa sổ nhìn bao quát tất cả sông núi tuyệt vời của nước ta, chốc chốc lại nhấc bàn tay khẳng khiu như que củi chỉ chỏ những dãy núi cao, những con sông, những cánh rừng, những thảm thực vật đang tuột hẳn về phía sau; rồi sau đó dí dỏm nói với tôi: “Con xem! Trung Quốc vĩ đại biết bao! Xinh đẹp biết bao! Chúng ta bay đã lâu rồi mà vẫn chưa đến Hán Trung. Nếu là ở ngoại quốc, đừng nói đi máy bay, ngay cả ngồi xe lửa á! Vừa ngáp cái thì đã qua nước khác luôn rồi”.

Ước chừng bay khoảng 2 tiếng, tầm khoảng 7h là chúng tôi đã đến không phận của Hán Trung. Máy bay cần phải nạp nhiên liệu, nên hạ cánh xuống sân bay gần đó. Nhân viên công tác sân bay tiếp đãi chúng tôi rất khách khí, hỏi linh mục Lôi cần gì? Linh mục Lôi cảm thấy tinh thần rất phấn chấn, chỉ liên tiếp nói cảm ơn đáp lễ với người đến hỏi thăm.

Máy bay dừng lại ở sân bay Hán Trung khoảng 30 phút, liền tiếp tục cất cánh lao vút về phía nam. Trên máy bay nhìn thấy ngọn núi Đại Ba hùng vĩ cao chót vót, linh mục Lôi dường như bị say mê rồi. Ngài ấy vừa giơ ngón cái tán thưởng, lại cũng không ngừng nói với tôi: “Thật vĩ đại! thật tuyệt vời!”.

Linh mục Lôi thân mang trọng bệnh sắp lìa cõi thế; ấy vậy mà trong suốt lộ trình bay tới Trùng Khánh, không hiểu do thân thể của ngài thích hợp với việc bay trên không, hay là do “Hồi quang phản chiếu”, Ngài ấy luôn tỏ ra đặc biệt hưng phấn, dường như quên đi cả những bệnh khổ trên người; đối với cảnh đẹp trước mắt cũng thế luôn cảm thấy rất hiếu kỳ và đầy hứng thú. Sau khi máy bay rời khỏi Hán Trung, chẳng mấy chốc mây đen mù mịt bao phủ lấy chúng tôi, chúng tôi giống như chui vào một nhà kho bông vậy, chỉ còn nghe thấy tiếng động cơ vù vù, chứ hoàn toàn không biết máy bay đã bay tới chốn nào. Linh mục Lôi nửa đùa nửa thật nói với tôi: “Hãy cẩn thận máy bay đâm vào đỉnh núi, hãy chuẩn bị sẵn sàng đi gặp Thiên Chúa nha!” tôi trả lời ngài ấy một tiếng: “Vâng!” liền làm Dấu Thánh Giá, và mở Kinh Nhật Tụng ra cầu nguyện. Linh mục Lôi theo đó cũng nhắm mắt, và đi vào trạng thái “Trầm mặc”.

Viên phi công dường như cũng không thích sự ngột ngạt ử trong “Cái kho bông” này, thế là anh ta kéo đường bay xiên lên phía trên xé toạc đường mây. Sau mấy phút, chúng tôi lại xem thấy mặt trời, và những tia nắng chiếu tỏa khắp mọi nơi. Ngó về trước và nhìn sang trái phải là một biển mây mênh mông bao la nhấp nhô lượn lờ. Máy bay đã trở về lại trạng thái cân bằng và lao vút trên biển mây, giống như chú vịt cô đơn nhàn nhã trôi dạt trên biển vậy. Linh mục Lôi lúc này giống như trẻ nhỏ vậy, lập tức thay đổi thần sắc, bày tỏ sự kinh ngạc và hạnh phúc, chốc chốc lại gật đầu tán thưởng.

Nhưng, tiệc vui chóng tàn, việc tốt thì không kéo dài lâu; biển mây thăm thẳm vô tận ấy dưới tốc độ bay nhanh chóng, thời gian ở giữa đám mây cũng đã nhanh chóng trôi vào dĩ vãng. Chúng tôi lại nhìn thấy bộ mặt thật của “Thiên Phủ Chi Quốc” (nhà kho của trời); từ trên không nhìn xuống: nào là rừng núi xanh mướt, nào là ruộng bậc thang ngăn nắp, nào là sông ngòi uốn lượn, nào là nhà cỏ dày như sao trên trời, … Tất cả dường như đều hiển hiện ra trong tầm mắt của chúng tôi, vô cùng xinh đẹp. Linh mục Lôi vừa thưởng thức phong cảnh mỹ lệ này, vừa lẩm bẩm nhớ đến tu viện Biển Đức mà ngài ấy đã muốn đến từ lâu. Ngài ấy còn tùy tiện chỉ xuống dưới và nói với tôi: “Đợi thể trạng của cha khởi sắc một chút, chúng ta sẽ tới chỗ đó, Tu viện Biển Đức Tây Sơn nghỉ ngơi, để thuận tiện viết một cuốn hồi ký về bộ mặt thật của Cộng Sản!”. Tôi chỉ hờ hững đáp lại một từ: “Vâng!”.

Hơn 10h sáng, khi sắp tới Trùng Khánh, chúng tôi lại tiến vào trong tầng mây, và hình như trong đó có mưa. Khi nước mưa đập vào cửa kính, vì tốc độ máy bay rất nhanh, nên nước không rớt xuống theo lẽ thường mà chảy ngược về phía sau. Linh mục Lôi trong lúc bệnh tật thật sự là đã cải lão hoàn đồng rồi chăng? ngài ấy rất ngạc nhiên gọi tôi đến và chỉ cho tôi cảnh trí này. Để ngài ấy thêm vui vẻ, tôi cố làm ra vẻ hiếu kỳ kinh ngạc, thuận theo cảnh trí mà tay ngài ấy chỉ chú ý quan sát rất lâu.

Chúng tôi bay tới Trùng Khánh lúc 11h, sau khi rảo một vòng trên bầu trời, liền đáp xuống phi trường San Hô Ba. Xe Hội quân ủy phái đến sớm đã có mặt ở phi trường đợi chúng tôi. Sau khi chúng tôi hạ cánh liền lập tức chở chúng tôi về “Phố núi”. Tôi kêu tài xế chở chúng tôi đến nơi làm việc ở Trùng Khánh của Đức Tổng giám mục Vu Bân. Lúc đó, Đức Tổng giám mục đang ở Quế Lâm, nên Giám mục phó Gioan Ngưu chào đón và tiếp đãi chúng tôi. Giám mục phó là người kiệm lời, nhìn thấy linh mục Lôi thân mang trọng bệnh cận kề cửa tử, không nói không rằng nhanh chóng giúp đỡ tôi đem linh mục Lôi lên tầng 2, đặt linh mục Lôi nằm nghỉ trên chiếc giường đã được chuẩn bị cẩn thận. Nói cũng thật là kỳ lạ, buổi trưa, linh mục Lôi đã ăn một bát cháo và ba quả đào luộc; nhiều hơn so với lượng thức ăn cả ngày hôm qua ở Lạc Dương. Giám mục phó và tôi đều vô cùng vui vẻ, và chúc ngài ấy sớm ngày khỏe lại.

QUAN TÂM VÀ LO LẮNG

Tin tức linh mục Lôi đến Trùng Khánh chữa bệnh, rất nhanh thì đã truyền tới tai những bằng hữu sống ở khu vực phố núi này. Chưa đầy 20 phút, một vị du học sinh Bỉ tên gọi Vương Dục Tam đã vội vội vàng vàng đến thăm linh mục Lôi. Ngày hôm sau, thông qua tin tức trên báo chí, ba chữ “Lôi Minh Viễn” lại lần nữa xáo động cả thành phố ấy. Đầu đường cuối ngõ đâu đâu cũng nghe thấy lời bàn luận về vị “Lão nhân kháng chiến” đầy lòng yêu nước này: “……Haizz! ngài ấy bị “Bát Lộ Quân” hành hạ không nhẹ! Nghe nói tình hình bệnh tật tương đối nghiêm trọng!…… thật là! Cộng Sản nhẽ nào lại làm như vậy chứ!

Vì gần như mỗi ngày đều gặp phải máy bay địch oanh tạc, cũng như vì sự kích thích của các tin tức chiến tranh khắp nơi, Trùng Khánh, phụ đô tạm thời, đã rơi vào tình trạng căng thẳng và mẫn cảm cực độ. Bây giờ, lại thêm linh mục Lôi đến đây chữa bệnh, sự lo lắng và buồn bã của thành phố này cũng lại gia tăng thêm đáng kể.

Hôm đó ngày 13, từ 8h đến 10h sáng, Trùng Khánh lại gặp phải máy bay địch oanh kích, phòng làm việc ở Trùng Khánh của Tổng giám mục Vu cũng chịu tổn thất nho nhỏ; những mảnh ngói vỡ giăng đầy khắp sân, trong nhà thì cũng ngập tràn khói bụi, khắp nơi đồ đạc nằm ngổn ngang, thực sự không thích hợp cho bệnh nhân trú ngụ. Sau khi chúng tôi trao đổi bàn bạc, là giám mục Ngưu trực tiếp gọi điện cho Bệnh Viện Nhân Ái, sắp xếp phòng ốc. Khoảng 3h chiều, chúng tôi đem linh mục lôi chuyển tới Bệnh Viện Nhân Ái. Tôi và ngài ấy ở cùng một phòng, ngõ hầu tiện bề trông nom chăm sóc ngài ấy.

Vương Dục Tam là người đầu tiên đến thăm linh mục Lôi. Anh ta chính là người mà năm 1920 đích thân linh mục Lôi đã gửi đi học tập tại trường Đại học Leuven, nước Bỉ. Anh ta là người hào sảng và nhiệt thành. Anh ta quý mến linh mục Lôi giống như ông cụ thân sinh vậy. vừa nhìn thấy linh mục Lôi bệnh ra hình dáng như vậy, anh ta không cầm nổi nước mắt mà chạy đến ôm trầm lấy linh mục Lôi, vừa hôn vừa nói: “Cha à! Cha làm sao mà thành ra bộ dạng này vậy!” linh mục Lôi đáp lại bằng nụ cười cảm kích, nhưng chẳng có nói thêm lời nào.

Vương Dục Tam mặc dù công việc bận bịu, nhưng vì để bày tỏ lòng hiếu ái với linh mục Lôi, nên rất thường xuyên đến bệnh viện hỏi thăm sức khỏe của linh mục Lôi. Hôm sau, anh ta còn đích thân dùng nồi đất nấu canh gà cho linh mục Lôi dùng. Linh mục Lôi vì có sự cản trở của luật dòng, lúc đầu nhất quyết không chụi dùng; nhưng trải qua sự khuyên giải của mọi người, đặc biệt là do “tuyệt chiêu” của Vương Dục Tam: anh ta quỳ xuống đất khẩn cầu, tuyên bố không đạt được mục đích sẽ không đứng lên; nên linh mục Lôi mới miễn cưỡng uống một chút.

Bác sĩ của Bệnh Viện Nhân Ái đối với bệnh tình của linh mục Lôi cũng bó tay hết cách. Trong thành mỗi ngày đều nghe thấy tiếng còi cảnh báo, linh mục Lôi thì không thể đi lại, chỉ có thể nằm trên giường và đẩy ngài ấy đến phòng chống bom, thật là tiêu tốn rất nhiều sức lực. Thế là mọi người lại thương lượng và bàn bạc đối sách tốt hơn, kết quả cuối cùng, quyết định đem linh mục Lôi chuyển tới Bệnh Viện Trung Ương “Ca Lạc Sơn”ở ngoại ô cách thành phố hơn 30 km về phía bắc. Ngày 16, xe hơi do Hội quân ủy phái đến đem chúng tôi chuyển đến Ca Lạc Sơn, một ngôi bệnh viện với quy mô rất lớn. Linh mục Lôi trú ngụ trong một phòng đơn, ở kề góc phòng có đặt một chiếc ghế xếp, để tôi ngày đêm trông nom và chăm sóc cho ngài ấy.

Tin tức linh mục Lôi chuyển đến Bệnh Viện Trung Ương Ca Lạc Sơn rất nhanh thì đã truyền đi khắp Trùng Khánh. Bạn hữu các cấp trong giáo hội, chính phủ, xã hội cùng đều lần lượt đến thăm ngài ấy.

Về phương diện chính phủ, ngoài đại diện của Ủy viên trưởng dường như mỗi ngày đều tới thăm hỏi, thì Phó Ủy viên trưởng Phùng Ngọc Tường và Ủy viên chính phủ quốc gia Nguyên lão Quốc đảng Trương Phổ Tuyền cũng thường xuyên đến bệnh viện hỏi thăm tình hình sức khỏe của linh mục Lôi. Khi Phó ủy viên trưởng lần đầu đến thăm, linh mục Lôi lúc đó đang ngủ, tôi muốn lập tức gọi ngài ấy dậy, nhưng Phó Ủy viên trưởng đã kéo tôi lại, kiên trì muốn đợi cho tới lúc linh mục Lôi tỉnh lại mới lại trò chuyện với ngài ấy. Ông Phùng đã đợi đủ cả tiếng. Nhưng khi lúc linh mục Lôi tỉnh lại, ông Phùng nắm lấy tay của linh mục Lôi, nói: “Ông Lôi! Ông vất vả vì quốc gia rồi! Thượng Đế sẽ gìn giữ bảo vệ ông!” linh mục Lôi nhìn thấy ông bạn cũ (khi Trường Thành kháng chiến, khi đội cứu thương còn ở dưới trướng của tướng quân Tống Triết Nguyên, linh mục Lôi đã quen biết tướng quân Phùng),  và được biết ông bạn già vì cứu mình thoát nguy mà đã hao tổn rất nhiều tâm lực, đồng thời cũng lại nhớ đến vô vàn thống khổ phải chịu trong nhà giam của Cộng Sản, thì không cầm được nước mắt mà khóc rưng rưng. Ông Phùng hai mắt cũng ngậm đầy nước, không nhẫn tâm tăng thêm sự bị thương cho linh mục Lôi, nên quay qua an ủi ông bạn già: “Ông Lôi à! Ông phải an tâm điều trị, ngày mai tôi lại đến thăm ông!”, rồi ông mấy cáo biệt mà đi.

Nhân sĩ Giáo hội cũng như các cấp các giới đến thăm linh mục Lôi thật là nhiều vô kể xiết. Phó giám mục Ngưu buổi sáng mỗi ngày, sau khi cử hành Thánh Lễ xong, liền mang Thánh Thể, ngồi trên xe công cộng, đi hơn 30 cây số, đến trao lương thực từ trời cho linh mục Lôi. Giám đốc Báo Ích Thế Mã Tại Thiên, các du học sinh của linh mục Lôi như Vương Dục Tam, Mã Thọ Chinh, Trương Duy Bính,… cũng thường túc trực xung quanh giường bệnh của linh mục Lôi. Còn hàng vạn bạn hữu khác ở chiến khu núi Trung Điều cũng như các nam nữ đệ tử của ngài ấy,… Vì lý do gì đó mà không thể đến được, cũng đều quan tâm hỏi thăm tình hình của ngài ấy. Mỗi ngày, điện thoại đến hỏi thăm sức khỏe của linh mục Lôi tựa như tuyết rơi vậy. Còn những lời cầu nguyện cho ngài, tin tưởng rằng chúng cũng nhiều như khói hương quanh quẩn khắp bầu trời Ca Lạc Sơn vậy.

Dưới đây tường thuật một câu chuyện hết sức động lòng người, có thể khái quát tất cả những phần còn lại. Giám mục Trùng Khánh Thượng Duy Thiện, ngày thứ hai sau khi linh mục Lôi chuyển đến Bệnh Viện Trung Ương, liền ngồi xe công cộng đến Ca Lạc Sơn thăm hỏi linh mục Lôi. Khi xe ra khỏi thành không lâu, thì đột nhiên tiếng còi cảnh báo vang lên, tất cả các xe đều phải tạm dừng dưới những tán cây ven đường, để tránh bị máy bay địch phát hiện. Nhưng vùng ngoại ô không cấm người bộ hành, nên giám mục Thượng vì hi vọng sớm có thể gặp được linh mục Lôi, liền quyết định xuống xe đi bộ. Ngài ấy đã đi khoảng 3h đồng hồ mới có thể đến Bệnh Viện Trung Ương Ca Lạc Sơn. Khi ngài ấy ngồi ở trước giường linh mục Lôi, mồ hôi nhễ nhại, quần áo hoàn toàn ướt đẫm rồi!

Tất cả những người quen biết linh mục Lôi, chẳng có ai không quan tâm đến tình trạng bệnh của ngài ấy, nhưng từ trong thần sắc và lời nói của những người đến thăm, ai ai cũng đều dấu không nổi sự lo lắng của bọn họ đối với sức khỏe của linh mục Lôi.

PHỤ ĐÔ ỦY THÁC

Khi linh mục Lôi đến Trùng Khánh chữa bệnh, Tổng giám mục Vu Bân đang ở trên chiến địa ủy lạo các quân nhân tướng sĩ. Ngài ấy vừa nghe tin tức linh mục Lôi đến chữa bệnh tại Bệnh Viện Trung Ương Ca Lặc Sơn, Trùng Khánh, liền lập tức tạm dừng công việc “Ủy lạo quân nhân”,  từ Quế Lâm trực tiếp bay về Trùng Khánh, rồi ngồi xe đến thăm hỏi ông bạn già. Khi hai vị tri kỷ lâu ngày mới gặp, thật sự là có ngàn điều muốn nói, nhưng lại chẳng biết bắt đầu từ đâu. Hơn nữa, bệnh tình của linh mục Lôi cũng đang ở bên bờ vực cái chết, ngay cả khí lực để nói năng cũng chẳng còn nữa. Giám mục Vu nhìn ra điều ấy và cũng không nguyện gia tăng thêm sự mệt mỏi cho người bệnh, nên chỉ thăm hỏi vài câu, liền ngồi xuống ở phía đầu giường, hỏi thăm tôi về tình hình bệnh tật của linh mục Lôi. Sau khi tôi tóm tắt cho ngài ấy tình trạng của linh mục Lôi, liền nói với ngài ấy một vấn đề rất quan trọng: tôi lúc ấy cũng không biết linh mục Lôi đã viết “Di chúc” giao cho linh mục Lôi Chấn Viễn cất giữ, vả lại giám mục Vu cũng không rõ việc này. Vì thế, tôi khẩn thiết xin Tổng giám mục nhắc nhở linh mục Lôi có những sắp xếp thích hợp đối với hai hội dòng chúng tôi. Giám mục Vu cũng cho rằng đây không phải là chuyện nhỏ, nhưng lại là việc cấp bách không thể trì hoãn, nên liền thắng thắn muốn linh mục Lôi phải lập di chúc. Linh mục Lôi vô cùng khó khăn, không chỉ giọng nói thều thào mà còn liên lục bị ngắt quãng: “Trước… đây,” liền dừng lại. Tổng giám mục nghe thành chữ “Tiền” (chữ “Tiền” và chữ “Trước” trong tiếng Trung là chữ có âm rất giống nhau), liền lập tức an ủi linh mục Lôi: “Tiền! Không thành vấn đề, tôi sẽ tận tâm chăm sóc họ…”. Linh mục Lôi lắc đầu, miễn cưỡng nói lại: “Trước…đây…đã… đem… di… chúc… giao cho… linh mục… Lôi… Chấn Viễn… rồi!”.

Sau việc ấy, linh mục Lôi Chấn Viễn cũng tiết lộ, sáng sớm ngày 2 tháng 8 năm 26 Dân Quốc, trước khi linh mục Lôi lên đường đi tiền tuyến, linh mục Lôi Chấn Viễn đã buộc linh mục Lôi phải viết hai bản di chúc, một cho Dòng Tiểu Đệ Gioan Tẩy Giả, một cho Dòng Tiểu Muội Têrêsa, rồi sau đó đem hai bức di chức này khóa lại trong một chiếc hộp sắt nhỏ, giao cho linh mục Lôi Chấn Viễn bảo quản, sau khi linh mục Lôi qua đời mới được công bố.

Trong đêm ấy, đêm ngày 2 tháng 8 năm 26, linh mục Lôi đã viết xong di chúc, và đích thân viết cho Đức Tổng giám mục Vu Bân, giám mục Nam Kinh một bức thư, đem hai hội dòng mà ngài ấy mới lập giao phó và ủy thác cho ba vị giám mục (giám mục Nam Kinh Vu Bân; giám mục Phàm, giáo phận Tế Ninh; và giám mục Thành, giáo phận Hồng Động) coi sóc; Và chẳng hề nhắc tới việc “Lập di chúc”.

Linh mục Lôi hiện tại nằm trên giường bệnh, lại trải qua sự thúc giục của giám mục Vu, nên ngài ấy cũng phần nào cảm thấy thời gian của bản thân tại thế gian này cũng không còn nhiều nữa. Để xoa dịu con tim của chúng đệ tử nam nữ, ngoài việc tiết lộ bản thân đã lập di chúc, cũng lần nữa đem hai tu hội mà ngài lập ra trực tiếp trao phó và ủy thác cho Tổng giám mục Vu Bân.

Mặc dù như thế, nhưng linh mục Lôi cũng là vẫn không mong muốn bản thân chết sớm, nhưng xin Đức Tổng giám mục truyền lệnh cho các tu sĩ của hai hội dòng tiếp tục cầu nguyện cho ngài ấy sớm ngày hồi phục mạnh khỏe, vì vẫn còn rất nhiều công việc đang chờ đợi ngài ấy hoàn thành!

Sau đó, linh mục Lôi kêu tôi rời đi, để ngài ấy lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải trong tay Đức tổng Vu Bân.

Trong giai đoạn đầu kháng chiến, trong nước lưu truyền một kiểu nói tương đối phổ biến mà trên báo đài cũng có thể xem thấy, chính là nói, Công Giáo Trung Quốc có ba anh tài: Mã Tương Bá, Lôi Minh Viễn Và Vu Bân. Lão đại Mã Tương Bá, lúc ấy tuổi đã gần 99, tọa trấn tại Quế Lâm, thỉnh thoảng phát ngôn cổ vũ kháng chiến, để hai vị tiểu đệ, một rong ruổi nơi chiến địa, một lang bạt khắp đất nước, tận lực làm sáng cái tinh thần bác ái (đặc biệt là yêu nước) của Đạo Công Giáo; nhờ đó,   những ấn tượng xấu và nhiều điều hiểu lầm đối với Giáo Hội Công Giáo trong quá khứ, đã được rửa trôi đi rất nhiều.

Vì nhiều lý do khác nhau, Đức Tổng giám mục Vu Bân đã rất hảo tâm đáp ứng linh mục Lôi, tận lực chăm sóc hai hội dòng mà linh mục Lôi mới lập. Sau đó mấy ngày, linh mục Lôi quả nhiên đã nhắm mắt xuôi tay, Đức tổng nhìn thấy tôi khóc lóc không ngừng, liền nói với tôi: “Lập San! Đừng khóc nữa! Mau đi nghỉ ngơi,ngày mai phải ăn uống cho tốt. Con phải thông báo cho toàn thể các anh chị em của hai hội dòng: linh mục Lôi là cha của anh chị em, và ta chính là thúc phụ của anh chị em”.

Quả thật, từ khi linh mục Lôi qua đời cho đến khi Đức tổng nhắm mắt xuôi tay, Đức tổng luôn luôn khuyên dạy và chăm sóc hai hội dòng ấy, linh mục Lôi nơi thiên quốc có thể an tâm và mỉm cười rồi.

MỘT CHÚT HY VỌNG

Linh mục Lôi là người nổi tiếng thế giới, đồng thời cũng là anh hùng kháng chiến; thêm vào đó là sự phân phó đặc biệt của Hội Ủy viên Trung Ương, nên các y bác sĩ tại Bệnh Viện Trung Ương vô cùng lưu tâm và cẩn thận kiểm tra tình hình bệnh tật của linh mục Lôi. Cuối cùng, họ đã đoán định bệnh mà ngài ấy mắc phải là bệnh vàng da; nhưng là sỏi hay là khối u ác tính thì vẫn chưa thể xác định. Bác sĩ còn nói, nếu là sỏi, thì việc cắt bỏ vẫn có hi vọng khỏi bệnh; nhưng nếu là khối u ác tính, cắt bỏ nhất định sẽ chết. Hơn nữa, thể trạng của bệnh nhân có thể duy trì sự dày vò của phẫu thuật hay không cũng là vấn đề. Bác sĩ cũng nói, phẫu thuật thì chỉ có hi vọng một phần trăm mà thôi!

Như thế, để linh mục Lôi phẫu thuật hay không phẫu thuật; Bác sĩ cần người người nhà của linh mục Lôi quyết định; nếu phải phẫu thuật cần phải ký giấy cam kết.

Đối với vấn đề này, tôi và Vương Dục Tam bất đồng ý kiến; anh ta chủ trương dù nắm một phần trăm hy vọng, cũng phải phẫu thuật cho linh mục Lôi; tôi lại cho rằng không nên mạo hiểm như thế, nó sẽ đẩy ngài ấy đến cái chết nhanh hơn. Vương Dục Tam tính tình hào sảng, nhiệt thành và cũng tương đối nóng nảy. Anh ta cho rằng bản thân từ nhỏ đã theo linh mục Lôi đến Bỉ học hành, hơn nữa còn trú ngụ trong chính nhà linh mục Lôi; anh ta yêu quý linh mục Lôi như cha ruột của mình, xem mẹ của linh mục Lôi như là bà nội vậy, nên anh ta cho rằng bản thân chính là người thân nhất của linh mục Lôi, nên anh ta mới là người quyết định có nên phẫu thuật cho linh mục Lôi hay không, nên anh ta lập tức muốn đi kí cam kết phẫu thuật với bệnh viện.

Khi tranh chấp của chúng tôi vẫn chưa đến hồi kết, thì giám mục Vu Bân và linh mục Gioan Ngưu xuất hiện; hai người họ cũng đồng ý với quan điểm của tôi, và xét định tôi chính là người nhà của linh mục Lôi. Vương Dục Tam mặc dù không cam tâm, nhưng cũng khiêm cung nhượng bộ. Thế là chúng tôi quyết định không phẫu thuật cho linh mục Lôi.

Y bác sĩ của Bệnh Viện Trung Ương mặc dù cho rằng linh mục Lôi chẳng còn hi vọng gì sống sót, nhưng thuận theo yêu cầu của mọi người, dùng mọi phương pháp có thể, để kéo dài sự sống của ngài ấy, và chờ đợi kỳ tích xảy ra. Bác sĩ nói: “Một trong những phương pháp tốt nhất là truyền máu cho người bệnh!”. Thế là mọi người tranh nhau đi thử máu; ai ai cũng muốn hiến máu của mình cho linh mục Lôi. Vương Dục Tam là người nhiệt tình nhất, anh ta là người đầu tiên yêu cầu xét nghiệm máu. Kết quả xét nghiệm, trong tám người nguyện hiến máu, chỉ có máu của tôi là tương thích nhất với máu của linh mục Lôi. Tôi rất vinh hạnh hiến cho ngài ấy 260cc máu tươi.

Tây y đối với bệnh của linh mục Lôi tự nhiên cũng đã bó tay chịu trói. Chúng tôi cũng rất tự nhiên nghĩ tới Trung y như là cứu cánh tiếp theo để vãn hồi cũng như cứu chữa sinh mạng của ngài ấy. Nhưng theo quy định của Bệnh Viện Trung Ương, bệnh nhân nhập viện tuyệt đối không được mời Trung y đến thăm khám. Mọi người lại lần nữa thương lượng bàn thảo, để vãn hồi sinh mạng quý báu của linh mục Lôi, quyết định dấu nhẹm bệnh viện, âm thầm mời bác sĩ Trung y với danh nghĩa bạn hữu đến chẩn trị cho linh mục Lôi. Lúc đó ở Trùng Khánh có không ít bác sĩ Trung y nổi tiếng từ Bắc Bình, Thượng Hải, Nam Kinh, cũng như nhiều nơi khác cũng lần lượt ghé đến thăm khám cho linh mục Lôi. Linh mục Gioan Ngưu quen biết một vị bác sỹ Trung y rất nổi tiếng, tên gọi Trương Đích Điếm. Vị này y thuật cao siêu, kinh nghiệm cũng rất phong phú. Ngày 18, anh ta cùng đi với linh mục Ngưu đến thăm, và theo kế hoạch đã định, âm thầm chẩn mạch cho linh mục Lôi.

Sau khi chẩn mạch cho linh mục Lôi, bác sĩ Trung y họ Trương lại cẩn thẩn hỏi tôi và tình trạng của bệnh nhân trong một tháng qua, rồi trở về nhà kê một thang thuốc, đích thân đem sắc cho linh mục Lôi, sau đó cho vào bình và phái người đem đến. Bệnh nhân uống rồi, quả nhiên cảm thấy tinh thần có chuyển biến tốt. Khi chúng tôi đang vì sự chuyển biến đến từ linh mục Lôi mà vui mừng phấn khởi, thì bệnh viện đã biết được chuyện này, lập tức mời chúng tôi đem bệnh nhân rời khỏi bệnh viện. Vừa khéo cũng có một vị du học sinh Bỉ khác của linh mục Lôi, tên gọi Mã Thọ Chính, cũng ở Ca Lạc San mở một nông trường ở rất gần Bệnh Viện Trung Ương. Vì ở rất gần bệnh viện, nên từ khi linh mục Lôi nhập bệnh viện này, anh ta mỗi ngày đều nấu canh gà đưa đến cho linh mục Lôi dùng. Lúc này nghe nói linh mục Lôi buộc phải rời bệnh viện, thì lập tức ngỏ lời mời linh mục Lôi đến nhà anh ta trú ngụ.

Nông trường của Mã Thọ Chính tương đối lớn; phòng ở cũng rất đẹp đẽ ngăn nắp, sang trọng như một biệt thự nhỏ. Ba phòng ngủ, một phòng khách, nhà bếp và thiết bị vệ sinh cũng rất đầy đủ. Ngoài ra còn có nhà cho nhân công ở. Sân vườn cũng được bố trí rất đẹp; cây ăn trái rợp bóng, hoa cỏ ngát hương thơm; thực sự là một nơi lý tưởng để bệnh nhân chữa bệnh. Người nhà Mã gia không nhiều, ngoài vợ chồng anh ta, thì chỉ còn một đứa bé nam 9 tuổi. Anh ta cũng giống như Vương Dục Tam, xem linh mục Lôi như là cha ruột. Anh ta không chỉ nhường một phòng ở, mà còn đem phòng khách lớn trở thành phòng khách tiếp đón những người đến thăm linh mục Lôi. Nhà họ Mã mặc dù có người hầu kẻ ở, nhưng vợ anh ta giống như con cái vậy, nhất định phải tự tay chuẩn bị cơm nước cho linh mục Lôi mới chịu. Tôi ở cùng phòng với linh mục Lôi để tiện bề ngày đêm chăm sóc ngài ấy. Ngoài ra, chúng tôi còn mời một vị hộ sĩ đặc biệt ở bệnh viện tư nhân gần đó, ban ngày đến chăm sóc cho linh mục Lôi.

Sau khi linh mục Lôi dọn đến nhà họ Mã, đại diện của Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch cũng đặc biệt mời đến một vị bác sĩ Trung y rất có tiếng, tên gọi là Trương Giản Tế, để chẩn trị cho linh mục Lôi. Sau khi hai vị bác sĩ họ Trương hội chẩn, bàn bạc trao đổi ý kiến và cùng nhau kê đơn. Sau khi linh mục Lôi uống thuốc, quả nhiên cũng có chút khởi sắc; có thể nói vài câu chính là một bằng chứng rõ nét. Trước sự việc ấy, không chỉ chúng tôi mừng rỡ vô cùng, hai vị bác sĩ Trung y cũng rất vui vẻ. Mọi người đều ôm niềm hi vọng rất lớn, hy vọng vị lão nhân kháng chiến sắp chết này có thể lần nữa trở lại núi Trung Điều, tiếp tục sự nghiệp cứu quốc vậy.

LINH MỤC LÔI, NGÀI SẼ KHÔNG CHẾT ĐÂU?

Đối với bệnh tình của linh mục Lôi, Tây y cũng đã bó tay chịu trói, Đông y cũng chỉ cố gắng cầm cự cái sự sống thoi thóp, còn chúng bạn hữu của ngài thì luôn ở trong tâm trạng lo lắng nhiều hơn hy vọng; nhưng bản thân linh mục Lôi luôn có một niềm tin mãnh liệt rằng bản thân sẽ không chết, ngài ấy muốn tiếp tục sống. Ngài ấy nguyện ý tiếp tục sống không phải bởi vì ngài ấy sợ chết, cũng chẳng phải là để có thêm thời gian hưởng thụ những sự thế gian này, mà là để bản thân có thể phục vụ mọi người nhiều hơn nữa. Ngài ấy đã từng nói: “Thế giới này rộng lớn như vậy, việc nên làm cũng rất rất nhiều; vì bản thân, tôi một phút một giây cũng không nguyện sống, nhưng vì thế giới, vì con người, vì giáo hội, vì quốc gia, trăm năm cũng chẳng kể là nhiều. Tôi luôn tích cực, mãi mãi tích cực!”. Những câu từ hết sức iêng hùng ấy, ngay cả trong lúc “Lâm tử”, ngài ấy cũng chẳng hề quên.

Hơn 40 ngày trở lại đây, tôi ngày đêm không ngừng chăm sóc cho ngài ấy: sắc thuốc, bưng bô, tắm rửa, niệm kinh, đọc báo,…mệt mỏi vô cùng; cộng thêm tâm tình lo lắng, nên mặt mày trông hốc hác tiều tụy hẳn. 2 hôm trước còn truyền cho ngài ấy 200 cc máu, nên sắc mặt lại càng thêm hốc hác hơn. Đêm đó, ngài ấy dường như cảm giác được tình trạng trên của tôi, và dường như cũng cảm thấy “Tâm thần bất an”, nên đã chủ động kéo tay tôi, hai mắt ngấn lệ, nói: “Con vất vả quá rồi! cha biết báo đáp con như thế nào đây?”. tôi đáp lại: “Cha khỏe lại rồi, khi đó hãy tính đến chuyện báo đáp con”. Ngài ấy không chút do dự nắm chặt tay tôi, nói: “Con yên tâm, nhất định sẽ tới ngày đó!”.

Ba ngày trước khi linh mục Lôi qua đời, có một vị bằng hữu từ Côn Minh đã mang đến cho ngài ấy một bức thư rất dài. Mở đầu thư liền đi thẳng vào vấn đề: “Linh mục Lôi, ngài sẽ không chết đâu!”, sau đó anh ta liệt kê ra 6 lý do lớn khiến “Linh mục Lôi sẽ không chết!”; đặc biệt là đối với mỗi lý do đều có giải thích cặn kẽ, dạt dào văn ngôn. Ở đây không tiện trích dẫn toàn bộ, chỉ liệt kê ra nét chính yếu của 6 lý do lớn này:

  1. Công việc kháng chiến ở tiền phương —Đoàn giám sát, Đội cứu thương, Bệnh Viện dã chiến,… rất cấp thiết cần sự lãnh đạo của ngài ấy.
  2. 2 Hội Dòng Gioan Tẩy Giả và Têrêsa hãy còn non trẻ và vẫn chưa chín muồi càng cần ngài ấy hơn.
  3. Báo Ích Thế cũng cần ngài ấy.
  4. Giáo Hội Trung Quốc cũng cần ngài ấy.
  5. Công việc kiến quốc sau khi kháng chiến thắng lợi cũng cần ngài ấy.
  6. Bao nhiêu công việc xã hội khác cũng đang đợi ngài ấy lãnh đạo.

Sau khi vị bằng hữu này nói xong những lý do trên liền tiếp lời: “Linh mục Lôi, thời tiết Côn Minh ôn hòa, phong cảnh mỹ lệ, mùa hè không có oi bức như Trùng Khánh, mùa đông không khô lạnh như Bình Tân, thật sự xứng với tên gọi “Bốn mùa đều xuân”. Sau khi bệnh tình của ngài chuyển biến tốt, có thể đến đất này nghỉ dưỡng, tôi sẽ chuẩn bị cho ngài khu nhà yên tĩnh nhất. Linh mục Lôi à! Ngài mau đến nhé!”.

Tôi một bên vui vẻ đọc bức thư dài ấy cho linh mục lôi, còn ngài ấy thì nằm đó cẩn thận lắng nghe với khuôn mặt rạng rỡ, và chốc chốc lại gật đầu tỏ ý tán thành. Hai chúng tôi dường như đều đã đi vào trong mộng tưởng ngọt ngào, ngất ngất lâng lâng trong “Hy vọng” về một tương lai tốt đẹp!

Đọc xong thư, ngài ấy dặn dò tôi phải lập tức viết thư hồi đáp cho vị bằng hữu ấy, nói với anh ta: “Cha chấp nhận lời mời! Cha sẽ đi Côn Minh nghỉ ngơi vài ngày!”.

Lần khác, có hai vị nhân viên chính phủ đến thăm linh mục Lôi. Sau khi an ủi vỗ về linh mục Lôi vài câu, bọn họ liền quay sang tôi trò chuyện và hỏi thăm sức khỏe của linh mục Lôi, tình hình đội cứu thương ở tiền tuyến, cũng như tôn chỉ, đời sống,… và tinh thần của hội dòng. Tôi đều nhất nhất trả lời.

Không ngờ, cuộc trò chuyện của chúng tôi đều bị linh mục Lôi đang nằm yên trên giường bệnh nghe được. Sau khi khách ra về, ngài ấy gọi tôi đến bên giường, nói với tôi: “Vừa rồi con nói chuyện giới thiệu về hội dòng, đại thể vẫn tính là không tệ, nhưng đối với “Tôn chỉ” của hội dòng, con vẫn chưa nói được “Điểm chính yếu”. Tôi nắm lấy cơ hội tuyệt vời này, xin ngài ấy lập tức chỉ giáo điểm cốt yếu này cho tôi. Nhưng ngài ấy là trả lời tôi thế này: “Con vội cái gì! Đây không phải là vấn đề nói hai ba câu thì có thể nói rõ ràng, đợi khi cha khỏe lại, sẽ tường tận chỉ bảo con”.

Một lần khác, tinh thần của linh mục Lôi có chút thoải mái, liền ngắt quãng cố gắng nói với tôi: “Do bởi kinh nghiệm gian khó trong ba bốn năm trở lại đây, cha đối với hội dòng trước sau chỉ thực hiện phương hướng phải làm, ngoài ra còn có một kế hoạch khác!”. Đây dường như là một thao thức lớn của ngài ấy, ngài ấy đã hai lần nhắc đến việc này. Tôi lập tức lấy bút giấy chuẩn bị, sau đó nói với ngài ấy: “Cha à! Cha nói con viết; cha có kế hoạch mới gì, xin hãy nhanh nói cho con đi!

Ngài ấy lại nhoẻn miệng trì hoãn và khước từ tôi: “Không phải là cha đã nói qua với con rồi sao, đợi cha khỏe lại, chúng ta sẽ đi đến Tu viện Dòng Biển Đức ở Thuận Khánh, Tây Sơn viết ra sao?

Dù rằng linh mục Lôi không muốn chết, chúng tôi thì lại càng mong ngài ấy mau khỏe lại, chúng bạn hữu cũng không ngừng cổ vũ ngài ấy kiên trì và nỗ lực chống lại bệnh tật; nhưng tình thế khách quan cũng không thể không để ý đến, linh mục Lôi đích thực đã ở vào tình trạng bên bờ vực cái chết rồi. Sau khi tôi thương lượng bàn bạc với linh mục Ngưu, cũng chẳng đợi linh mục Lôi chủ động yêu cầu, trưa ngày 23 tháng 6 liền mời người đến xức dầu cho ngài ấy. Ngài ấy mặc dù không hy vọng chết, nhưng đối với bí tích sau cùng này, thì cũng rất vui vẻ đón nhận.

Sau khi linh mục Lôi lãnh nhận Bí Tích Xức Dầu, tôi quỳ dưới chân thập tự, khấn nguyện với Chúa Giêsu và thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng Thiên Sai: “Nếu ngày mai, Lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả, linh mục Lôi khỏe mạnh lại, con sẽ làm một bài thánh ca ca ngợi Thánh Gioan Tẩy Giả!”.

HY VỌNG CUỐI CÙNG

Buổi trưa ngày 23 tháng 6 năm 29 Dân Quốc, Linh mục Ngưu mạo hiểm trăm ngàn gian khó, xông qua làn tên mũi đạn của quân thù, từ phụ đô Trùng Khánh chạy đến vùng Ca Lạc Sơn, thuộc khu vực ngoại ô cách Trùng Khánh khoảng 13km, để cử hành những bí tích sau cùng cho linh mục Lôi, người đang thoi thóp hơi tàn trên giường bệnh. Chúng ta đã nói qua, linh mục Lôi không muốn chết, ngài ấy nhớ nhung, quan tâm và hoài niệm công việc của bản thân, đặc biệt là công việc cứu quốc mà ngài ấy đang lãnh đạo dang dở. Ngài ấy chẳng có tự động kêu chúng tôi mời linh mục đến ban Bí Tích Xức Dầu, nhưng xem ra, ngài ấy cũng rất cảm nhận được những động tác cầu nguyện hay xức dầu mà linh mục Ngưu thực hiện trên thân thể ngài ấy. Những tưởng ngài ấy sẽ bất an kinh hoàng, nhưng ngược lại, ngài ấy lại mặt mày vui vẻ yên lặng tiếp nhận những bí tích sau cùng này.

Khoảng 4h chiều ngày hôm ấy, bác sĩ Trương Giản Tế cùng với đại diện của Ủy viên trưởng họ Tưởng đến thăm linh mục Lôi, và bốc cho linh mục Lôi một thang thuốc; linh mục Lôi sau khi dùng thuốc, chẳng mấy chốc thì đã đi vào giấc ngủ, cả đêm chẳng có chút động tĩnh gì. Tình hình này khiến niềm tin “Linh mục Lôi sẽ không chết” của tôi càng trở nên mạnh mẽ.

Đêm muộn, khi khách khứa lần lượt đã ra về hết, tôi quỳ trước Tượng Khổ Nạn bên cạnh giường của linh mục Lôi, hướng về Giêsu và Tiền hô của Ngài, thánh Gioan Tẩy Giả cầu nguyện một cách rất thực dụng:

Đại thánh Gioan Tẩy Giả! Ngày mai là lễ sinh nhật của ngài. Nghe nói, bài thánh ca lấy “Đồ, rê, mi, fa, sol, la, si” làm âm khởi ca tụng ngài là do một nhạc sĩ mắc chứng viêm họng vô cùng nghiêm trọng sáng tác; họng của anh ta vừa vặn trong đêm vọng sinh nhật của ngài tự nhiên lành lặn trở lại, anh ta vì cảm kích ân đức của ngài, nên đã làm nên bài thánh ca ấy.

Lạy thánh Gioan Tẩy Giả, thánh bổn mạng của hội dòng chúng con! Ngài biết, Kinh Nhật Tụng tiếng Trung mà chúng con hát, đặc biệt là Kinh Nhật Tụng trong ngày lễ trọng thể mừng kính sinh nhật của ngài, đều là những lời ca mà linh mục Lôi viết ra, để biểu lộ tâm tình của ngài ấy; ngài ấy không chỉ là có thiên phú âm nhạc, mà lại còn rất chân thành phụng sự Thiên Chúa; nhạc khúc mà ngài ấy phổ nhạc vô cùng động lòng người. Vậy nên, nếu ngài khai ân, hôm nay xin hãy chữa lành cho linh mục Lôi, con sẽ xin ngài ấy phổ một bài hát vô cùng cảm động dâng kinh ngài!

Tôi cầu nguyện xong, quay mặt sang nhìn linh mục Lôi đang an nhiên ngủ trên giường, khiến cho niềm tin của tôi đối với sức khỏe của ngài ấy gia tăng gấp bội. Tôi dường như nghe được tiếng nói của linh mục Lôi: “Con à! Cha khỏe rồi! Nhanh lấy giấy bút đến đây! ta sẽ phổ một ca khúc vô cùng cảm động và tuyệt mỹ dâng kính Thánh Gioan Tẩy Giả!”.

Tôi nghe những lời ấy thì đột nhiên bừng tỉnh, thì ra là tôi mệt mỏi quá nên ngủ thiếp đi, và mơ một giấc mơ rất đỗi tuyệt vời, bên cạnh giường của linh mục Lôi.

Sáng hôm say, Lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả, bổn mạng của hội dòng chúng tôi, linh mục Lôi đã tỉnh lại, bày ra một điệu bộ vô cùng khởi sắc. Ngài ấy muốn uống nước trái cây, sau đó lại uống một bát cháo. Bữa sáng hôm ấy so với lượng thức ăn của cả ngày hôm qua, thật sự là nhiều hơn gấp bao lần. Trong tim tôi vô cùng mừng rỡ, tâm tình cảm kích và tin cậy thánh Gioan Tẩy Giả cứ thế luân phiên hiện diện trong tôi. Nhưng tôi nhất thời cũng không dám kể cho linh mục Lôi về những gì hôm qua tôi đã khấn nguyện, nhưng trong lòng tôi thì không ngừng vang lên những âm thanh cảm tạ và ngợi ca Thiên Chúa.

8h sáng, Vương Dục Tam, một du học sinh được linh mục Lôi chăm sóc đã đến; tôi không đợi anh ta hỏi, nhưng ngay lập tức vui vẻ khoe với anh ta: “Linh mục Lôi sẽ không chết! Sáng hôm nay, tinh thần của ngài ấy vô cùng tốt, lượng thức ăn sáng nay ngài ấy dùng còn nhiều gấp mấy lần lượng thức ăn mà cả ngày hôm qua cộng lại. Tôi đã sớm nói với anh rồi, vẫn còn rất nhiều công việc đang đợi ngài ấy đi hoàn thành ấy!

Vương Dục Tam là người tính tình trực sảng, anh ta nghe tôi nói như thế, liền vui vẻ quên cả chào hỏi người bệnh (linh mục Lôi), một mặt tán đồng với nhận định của tôi: “Đương nhiên, linh mục Lôi đương nhiên sẽ không chết!”, một mặt cũng lớn tiếng khen ngợi: “Nhất định là thuốc của bác sĩ Trương Giản Tế tốt! Ông ấy thật không hổ là danh y! Chúng ta mau chóng sắc thang thuốc thứ hai cho linh mục Lôi uống nào!” nói đoạn, anh ta đã mất hút khỏi phòng bệnh, đi đốc thúc nữ hộ sĩ mau chóng sắc thuốc cho linh mục Lôi uống.

Linh mục Lôi sau khi uống xong thang thuốc thứ 2, khoảng một giờ sau thì bệnh tình lại chuyển biến xấu, đờm của ngài ấy tắc ở cổ họng. Chúng tôi chỉ nghe thấy tiếng khò khè phát ra từ cổ họng, muốn nhổ ra cũng không xong; cố gắng gượng ép nhổ ra được một chút thì lớp đờm mới lại lập tức trào lên, dừng lại nơi cổ họng, khiến cho việc hô hấp của linh mục Lôi vô cũng khó khăn. Sắc mặt vàng vọt của ngài ấy cũng dần chuyển sang tím tái nhợt nhạt, tứ chi dần cũng trở nên cứng đờ, nằm ngửa trên giường, dùng hết sức bình sinh mà hít lấy không khí. Vị nữ hộ sĩ ở trong phòng chốc chốc lại lấy bông tẩm nước xoa lên đầu lưỡi của ngài ấy. Ngài ấy dường như đã đi vào trạng thái hôn mê, chúng tôi loạn hết cả chân tay nhưng cũng không biết phải làm sao cho phải.

Khoảng 4h chiều, sau khi hết lệnh giới nghiêm, bác sĩ Trương Giản Tế cùng với vị đại diện của Ủy viên trưởng đến thăm khám bệnh; Tổng giám mục Vu Bân, linh mục Ngưu, giám đốc Báo Ích Thế Mã Tại Thiên, và một số bằng hữu khác cũng lần lượt đến thăm linh mục Lôi.

Bác sỹ Trương vừa nhìn thấy bệnh tình của linh mục Lôi thì có chút kinh hoảng, rối rít hỏi chúng tôi: có phải ngài ấy đã uống thang thuốc thứ hai, có phải sau khi sắc không có cho thêm bột quế vào?

Chúng tôi theo sự thực mà kể cho bác sĩ nghe, chúng tôi đã không cho thêm bột quế vào. Bác sĩ nói: “Bởi vì thuốc rất mạnh, sẽ đẩy đờm lên, nhưng nếu thêm bột quế thì có thể tiêu đờm”. Mọi người nghe xong liền rối rít hỏi anh ta biện pháp khắc phục. Anh ta nói có, liền lập tức kê đơn, kêu chúng tôi đi mua nhân sâm và bột quế. Đại diện của Ủy viên trưởng đích thân chạy xe với tốc độ nhanh nhất có thể đến khu vực thành phố Trùng Khánh, mua nhân sâm và bột quế tốt nhất. Bác sĩ Trương đích thân chăm sóc linh mục Lôi, và cho ngài ấy dùng nhân sâm và bột quế, nên đờm cũng dần dần tan; nhưng linh mục Lôi có thể hóa nguy thành an hay không, ngay cả bác sĩ Trương cũng không dám chắc. Mọi người vô cùng lo lắng và khẩn thiết vây quanh giường của linh mục Lôi, cùng nhau đợi chờ kỳ tích xuất hiện.

HẸN GẶP LẠI Ở THIÊN ĐƯỜNG

Trong cuộc đời, mỗi con người đều sẽ có một hoặc nhiều những kỷ niệm khó quên. Đối với tôi mà nói, từ 9h tới 12h tối ngày 24 tháng 6 năm 29 là một trong những khoảnh khắc khó quên nhất trong cuộc đời tôi. Tới hôm nay, đã đi qua hơn 50 cái mùa tết rồi, nhưng mỗi khi hồi tưởng lại, những hình ảnh ấy vẫn sống động như mới diễn ra hôm qua, lại khiến con tim bồi hồi và không ngừng rơi những giọt nước mắt.

Thời khắc này chính là giây phút vĩnh biệt thế gian này của linh mục Lôi.

Sáu giờ chiều ngày hôm ấy, sau khi linh mục Lôi ăn xong nhân sâm và bột quế, chúng tôi gồm Tổng giám mục Vu Bân, đại diện Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch, linh mục Ngưu, bác sĩ Trương Giản Tế, giám đốc Báo Ích Thế Mã Tại Thiên, 3 vị du học sinh Bỉ: Vương Dục Tam, Mã Thọ Chính, Trương Duy Bình, nữ hộ sĩ và tôi đều vây quanh giường bệnh, mắt dán chặt lên khuôn mặt của linh mục Lôi, một tiếng động cũng chẳng phát ra. Ai ai cũng ôm một niềm hi vọng rất lớn, chờ đợi sự chuyển biến có lợi cho linh mục Lôi.

Linh mục Lôi nằm trên giường, tựa hồ rất an nhiên nhưng quả thực đang rất vất vả tranh đoạt từng tý từng tý không khí. Nữ hộ sĩ ở bên cũng không ngừng giúp ngài ấy làm dịch dịch đờm, thứ cản ngăn linh mục Lôi hô hấp.

Đồng hồ điểm 9h, linh mục Lôi càng lúc càng tỏ ra yếu dần, chúng tôi dường như không còn nghe thấy hơi thở của ngài ấy nữa. Nữ hộ sĩ ở bên cạnh ấn vào động mạch của linh mục Lôi, đồng thời quay sang tôi ở phía đối diện ra hiệu cho tôi ấn vào động mạch ở cánh tay còn lại. Tôi vừa ấn thì liền giật thót, động mạch của bệnh nhân đã mất đi sự điều độ, có khi nhanh như ngựa chạy, mỗi phút tới hơn trăm lần đập; có khi lại chậm như rùa bò, mỗi phút chỉ đập chưa tới 20 lần. Nữ hộ sĩ ở bên phá vỡ im lặng nói với mọi người: “Linh mục Lôi sắp đi rồi!

Bác sĩ Trương im lặng âm thầm chấp nhận lời cảnh báo của nữ hộ sĩ.

Lời nói của hộ sĩ như một lưỡi kiếm đâm thẳng vào tâm can tôi; cảnh vật trước mắt tôi tối sầm lại tựa như tôi đang chìm dần vào hôn mê vậy. Tôi ngồi thụp xuống theo bản năng, quỳ bên cạnh linh mục Lôi, hít một hơi thật sâu, khống chế bản thân, không để mình gục ngã.

Khi nghe thấy lời cảnh báo của nữ hộ sĩ, Mọi người vây quanh linh mục Lôi đều thẫn thờ nín thở tập trung, cả căn phòng rơi vào thinh lặng một cách dị thường. Mọi người theo đó đều không ngừng tỏ ra căng thẳng; có người đọc kinh cầu cho bệnh nhân, có người nói lời an ủi và nhắc nhở ngài ấy yêu mến Thiên Chúa, có người lại hỏi ngài ấy có lời gì muốn nói hay không?… Linh mục Lôi chẳng có bất cứ phản ứng gì, vẫn an nhiên như trước đấu tranh với tử thần, để duy trì mạng sống quý báu.

Tôi quỳ bên giường linh mục Lôi, nước mắt ràn rụa, lòng rối như tơ vò, mặc dù luôn miệng cầu nguyện, nhưng cũng chẳng nhớ rõ đã cầu nguyện với ai? Là Giêsu? Là Thánh Mẫu Maria? Hay là Thánh Gioan Tẩy Giả? Hay là đang nói với linh mục Lôi? Bản thân tôi thận sự cũng không nhớ rõ. Tôi chỉ nhớ một điều, đó là cầu cho linh mục Lôi đừng chết. Tôi dường như là đã quay ra ăn vạ với Thiên Chúa và linh mục Lôi: “… Cha không phải đã hứa sẽ “Khỏi bệnh” để báo đáp sự lao nhọc của con sao? Cha không phải đã nói vẫn còn nhiều kế hoạch muốn nói với con sao? Cha không thể đi mà!

Khoảng 9h 30 tối, tôi vẫn cứ khóc lóc tính toán nợ nần với Thiên Chúa và linh mục Lôi, nhưng linh mục Lôi vẫn chẳng đoái hoài đến sự đau xót của tôi. Mũi gồng lên, mắt trừng trừng, miệng khạc ra ba ngụm nước bọt, dường như muốn nói với tôi ba tiếng: “Tạm biệt nhé! Hẹn nha! thiên đường gặp lại!”, rồi an nhiên đi vào giấc ngủ ngàn thu.

Sau khi linh mục Lôi ngừng thở, tôi ruột gan rối bời, lý trí không thể khống chế được con tim, liền ngã nhoài bên cạnh giường linh mục Lôi khóc lớn tiếng.

Sau khi Tổng giám mục Vu và đại diện của Ủy viên trưởng cũng như tất cả mọi người tiễn đưa linh hồn của linh mục Lôi, liền cùng nhau ra ngoài thương lượng chuyện hậu sự của linh mục Lôi. Họ nhìn thấy tôi đang khóc lóc bên cạnh giường linh mục Lôi, nên chẳng đành lòng gọi tôi cùng đi. Nhưng, đại diện Ủy viên trưởng dường như muốn an ủi tôi, vỗ nhẹ tôi một cái, và nói: “Tang sự của linh mục Lôi, đều sẽ do chính phủ sắp xếp, anh đừng quá lo lắng!”. Tôi đột nhiên nhớ đến  lúc linh mục Lôi còn sống nhiều lần đã nói: “Muốn an táng theo cách thức của một tu sĩ khổ tu, chôn mà không cần quan tài”. Tôi đem ước nguyện của linh mục Lôi nói với đại diện Ủy viên trưởng, nhưng anh ta lại nói với tôi: “Tất cả do tôi xử lý, anh không cần quản!”. ( Ngày hôm sau, anh ta mua cho linh mục Lôi một cỗ thọ quan làm bằng gỗ Lim thượng hạng).

Khi vị đại diện của Ủy viên trưởng rời khỏi phòng, có một vị bằng hữu có mặt tại đó ghé tai nói nhỏ với tôi: “Sau khi linh mục Lôi mất, không đến 3 tháng, hội dòng của mấy người sẽ phải giải tán!

Lúc ấy, tôi mặc dù tâm can vỡ nát, tâm trạng vô cùng tồi tệ, nhưng lại chẳng bị lời cảnh báo kỳ quái này ảnh hưởng. Tôi xem như bản thân không nghe thấy những lời ấy, mà tiếp tục cầu nguyện và khóc thút thít.

Đêm càng về khuya, chúng bạn hữu của linh mục Lôi cũng dần dần rời đi. Trước khi Đức Tổng giám mục Vu Bân rời đi, ngài ấy quay lại nhìn linh mục Lôi một lần nữa. Vừa nhìn thấy, hai hàng châu lệ cũng rời khỏi khóe mắt, mà lăn dài trên gò má. Sau đó, quay sang nói với tôi bằng giọng điệu trưởng bối: “Lập San! Đi soi gương coi, xem mặt anh thành ra cái gì nào! … mau đi nghỉ đi, ngày mai phải chăm sóc bản thân cho tốt!

Sau khi Đức Tổng giám mục Vu Bân trở lại Trùng Khánh nghỉ ngơi, tôi cũng chẳng đem lời của ngài ấy khắc sâu vào tâm trí mà vẫn tiếp tục ở bên cạnh linh mục Lôi cầu nguyện, khóc lóc; khóc lóc rồi lại nguyện cầu;… và cứ thế lặp đi lặp lại tới khi hừng đông ló dạng.

CHẾT CŨNG KHÔNG THÔI

Đêm muộn ngày 24 tháng 6 năm 29, sau khi bạn hữu đến tiễn biệt linh mục Lôi đã rời đi hết, vợ chồng Mã Thọ Chính cũng trở lại phòng của họ nghỉ ngơi. Một mình tôi ở lại quỳ trong phòng. Không! Tôi vẫn có thi thể của linh mục Lôi làm bạn, cùng cầu nguyện, cùng khóc lóc, cùng nhớ về quá khứ, và cùng tưởng tượng về tương lai. Tôi lúc ấy không chỉ cảm thấy mất mát tinh thần, mà còn cảm thấy tiền đồ mờ mịt mênh mang. Không biết bằng một cách nào đó, lời cảnh báo của vị bạn hữu lúc nãy lại văng vẳng bên tai tôi: “Sau khi linh mục Lôi mất, chưa tới ba tháng thì hội dòng của các người sẽ giải tán!”. Tôi theo bản năng cảm thấy một cơn đau nhói lòng bao phủ toàn thân thể, nên không kìm được mà ngẩng đầu nhìn thi thể đang nằm bất động trên giường, khóc lóc nói: “Cha à! Anh em chúng con ở khắp nơi phải làm thế nào đây? Ai sẽ là trung tâm của chúng con? Ai sẽ là ngọn cờ đầu để chúng con cùng nhau ngóng về đây? Còn công việc kháng chiến hiện tại ở tiền phương nữa, ai sẽ đến lãnh đạo đây? Còn này…..? Còn điều kia….?”.

Các loại nan đề, nhất thời toàn bộ đều xuất hiện trong đầu tôi, con tim của tôi thật sự như muốn nổ tung vậy!

Đột nhiên, tôi như nghe thấy một âm thanh rất quên thuộc, đích thị là tiếng nói của linh mục Lôi: “Con à! Cha không phải đã từng nói với con: “Gia Cát Lượng nói: ông ta cúc cụng tận tụy đến chết mới thôi; còn cha cúc cung tận tụy đến chết không thôi”, con quên rồi sao?”.

Một đạo ánh sáng chiếu thẳng vào con tim vỡ nát của tôi, lời cổ vũ nhân tâm của tông đồ Phaolô cũng xuất hiện trong não tôi, lời đó chính là viết: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Ngài” (Rm 8,28).

Khi các loại tâm tình đắng cay đau khổ ngọt bùi cứ thay phiên nhau đến và đi trong đầu tôi, đột nhiên có những tiếng gọi vang vang bên ngoài của sổ, phá vỡ sự tĩnh lặng của căn phòng: “Lập San! Cha ở đâu! Cha ở đâu! Tôi đến thăm cha nè!”. Tôi gạt đi những giọt nước mắt, mở cửa nhìn. Thì ra là Phùng Nhược Tư, một kỹ giả nữ rất kính mến linh mục Lôi, và xem ngài ấy như là cha vậy. Tôi nói cho cô ấy biết linh mục Lôi vừa mới qua đời rồi, đồng thời chỉ tay về phía căn phòng có đặt thi thể của linh mục Lôi.

Hơ hơ!” cô ấy gào khóc lớn tiếng, kể lể sự hối tiếc của mình vì đã không kịp về nhìn linh mục Lôi lần cuối, thực sự quá thương tâm mà. Cô ấy kể, cô ấy vốn dĩ có thể đến sớm hơn rồi, nhưng chỉ vì giữa đường gặp sự cố, rồi lạc đường, nên nhất thời không thể sớm tìm được đến nhà của Mã Thọ Chính, nên đã đến chậm một bước rồi. biết làm thế nào bây giờ! Ngoài sự ân hận không thôi, cô ấy còn không ngừng khóc lóc kể lể, đồng thời cũng không ngừng lẩm bẩm cầu nguyện cho linh mục Lôi.

Hai mươi mấy năm trước, ở tổng hội đã công chiếu bộ phim “Phong Hỏa Chung Thanh” (thanh âm chiến tranh), đó là một bộ phim mô tả linh mục Lôi dẫn dắt tu sĩ nam nữ và giáo dân tham gia đội cứu chữa thương binh. Lâm Tố Trân, nữ chính trong bộ phim này chính là hình ảnh của Phùng Nhược Tư ngoài đời thực. Đoạn Lâm Tố Trân cầu nguyện sau cái chết của linh mục Lôi trong đoạn phim này chính là phản ánh ra tâm tình của cô Phùng đang khóc lóc rên rỉ bên cạnh thi thể của linh mục Lôi. Trích ra đây một đoạn để mọi người có thể thì nghiệm.

Khi âm thanh thông báo linh mục Lôi đã qua đời nhè nhẹ đi vào tâm khảm của Lâm Tố Trân, khiến con tim mỏng manh và thiện lương của cô ấy như vỡ ra từng mảnh, cô ấy cảm thấy một cơn đau quặn thắt khó mà chịu nổi, theo quan tính hai tay đưa lên che mặt, và tiếp tục những tiếng khóc thất thanh.

Cô ấy quỳ rạp dưới đất trong căn phòng đặt thi thể của linh mục Lôi. Đôi giày vải sờn rách bạc màu dính đầy bùn lầy, chiếc áo xườn xám vải lanh sĩ lâm bạc màu che dấu thân hình mảnh khảnh và yếu ớt, lấm tấm đầy cát bụi và nước mưa. Ngoài ra, trên đầu tóc rối bù của cô ấy cũng dính lất phất lơ phơ vài cọng cỏ dại. khi cô ấy chầm chậm nhấc đôi bàn tay ra khỏi khuôn mặt ràn rụa nước mắt, để lộ ra một dung nhan tiều tụy. Đôi mắt trong veo chẳng còn thần sắc, sâu hun hút vô hồn; bờ môi trắng bợt không ngừng run rẩy, hai tay nắm chặt vào nhau,… tất cả như hoàn hảo khắc họa ra những đớn đau và ưu phiền trong nội tâm. Cô ấy ngẳng đầu nhìn chăm chú bức tượng Chúa Chịu Nạn dựng đứng ở đầu giường bắt đầu lẩm bẩm thống thiết van lơn kỳ kèo:

Chúa tôi! tại sao lại lấy đi người cha của chúng con thế?

Tố Trân trong lòng cảm thấy quặn thắt, hai tay không ngừng xiết nhẹ, hai hàng nước mắt vẫn chảy dài trên gò má đến tận mép môi. Cô ấy có lẽ đã cảm nhận được mùi vị của nước mắt, nên dùng bàn tay nhẹ nhàng gạt đi; nhưng điều đó cũng không thể ngăn cô ấy tiếp tục hướng về khuôn mặt vô tình của linh mục Lôi mà kể lể và cầu nguyện.

Cha à! Cha ở nơi nào? Cha tại sao không đợi con thêm chút nữa? Cha có biết là con đã vượt qua bao nhiêu quãng đường không, chỉ vì mong muốn được trực tiếp gặp cha một lần không?… hức hức, cha à! Tại sao ngài không lưu lại cho con dẫu chỉ một lời, mà đã vội vàng ra đi! Cha ơi! Cha ơi!…

Sau khi khuyên giải Phùng Nhược Tư rời đi nghỉ ngơi, trời cũng đã qua nửa đêm. Tôi mặc dù cảm thấy rất mệt, nhưng không thể đi vào giấc ngủ. Thế là tôi tiếp tục ngồi bên cạnh linh mục Lôi cầu nguyện.

Đêm đó có lẽ là đêm dài nhất! Lý trí và con tim của tôi cả đêm không ngừng đấu tranh. Mặc dù có thắng có bại nhưng sau cùng lý trí đã vượt qua con tim: tôi không chỉ để cho người ta đem thi thể linh mục Lôi đặt trong chiếc quan tài đắt giá, mà cũng không còn cảm thấy thất vọng hay tiêu cực. Cho đến ngày hôm nay, tôi vẫn luôn tin tưởng linh mục Lôi sẽ không chết. Không chỉ linh hồn của ngài ấy ở bên Chúa, mà tinh thần của ngài ấy, thần thái của ngài ấy, giáo huấn của ngài ấy,… vẫn luôn ở giữa chúng tôi. Ngài ấy sinh thời đã chẳng nói qua: “Cúc cung tận tụy, đến chết không thôi” sao!

ĐÁM TANG SAU KHI CHẾT

Linh mục Lôi mặc dù nói, ngài ấy “Đến chết không thôi”, và thực tế linh hồn của ngài ấy quả thực vẫn đang sống; tinh thần của ngài ấy, di sản của ngài ấy,… vẫn còn sống mãi trong đời sống của không ít người; nhưng thân thể của ngài ấy cuối cùng đã thành thi thể lạnh cứng.

Đối diện với sự thể ấy, chuyên mục “Xuân Phong Thập Niên” này của tôi đăng trên báo “Thánh Hóa” cũng phải nói lời tạm biệt đối với quý độc giả. Nhưng thể theo yêu cầu của độc giả, chí ít là phải viết một bài viết giản lược đám tang trọng thể của linh mục Lôi, xem như là lời chào tạm biệt độc giả, và đoạn kết cho “Xuân Phong Thập Niên”.

Sau khi tin tức linh mục Lôi qua đời được truyền đi, rất nhiều người, bao gồm nhân viên quan chức chính phủ đương thời, lãnh đạo giáo hội, người nổi tiếng trong xã hội, bạn hữu sinh thời đều lần lượt nườm nượp tới Ca Lạc Sơn viếng tạ và nhìn mặt linh mục Lôi lần cuối. Phó Ủy viên trưởng Hội ủy viên quân sự Phùng Ngọc Tường khi đến viếng tạ, nhìn thấy giáo dân rảy nước thánh trên di ảnh và thân thể của linh mục Lôi, ông ta, một tín hữu Tin Lành đã quay sang hỏi tôi: “Tôi có thể thực hiện nghi thức này không?” Tôi trả lời ông ấy: “Đương nhiên là có thể rồi!” và liền cầm nước thánh chuyển cho ông ta. Ông ta vừa rảy nước thánh, vừa lẩm bẩm trong miệng: “Linh mục Lôi, ngài ở trong Chúa, an nghỉ nhé!” nói đoạn, thì nghẹn ngào nức nở. Những người đến viếng tạ khác, đơn cử như nguyên lão Đảng Quốc Dân Trương Phổ Tuyền, cũng nức nở nghẹn ngào, khiến người ở đó cũng cảm động không thôi.

Tôi mặc dù đã nhiều lần đem ý nguyện lúc sinh thời của linh mục Lôi là “Nguyện an táng theo phương thức của những tu sĩ khổ hạnh: an táng không quan tài” nói với những người phụ trách hậu sự của linh mục Lôi, nhưng người đại diện an táng phía chính phủ đã cự tuyệt lời trần tình của tôi. Ngày hôm sau, anh ta đưa đến một cỗ quan tài bằng gỗ lim vừa dày vừa nặng. Theo như những người đương thời ở Trùng Khánh nói, ước tính đó quả thực là chiếc quan tài hảo hạng vậy.

Trước khi nhập quan, linh mục Ngưu trước di hài của linh mục Lôi đã cử hành thành Lễ cầu hồn. Sau đó, Đức Tổng giám mục Vu Bân của hành nghi thức nhập quan, đồng thời cử hành Thánh Lễ an táng vào ngày hôm sau. Sau Thánh Lễ, chiếc quan tài mang di hài của linh mục Lôi được tạm thời chôn nổi trong một căn phòng đơn giản, được xây dựng trên nông trại của Mã Thọ Chính, để đợi chờ ngày kháng chiến thắng lợi, di chuyển về tu viện của Hội Dòng Gioan Tẩy Giả ở Bắc Bình.

Sau khi kháng chiến thắng lợi vào năm 34, tôi đã từ Bắc Bình bay tới Trùng Khánh, tới Ca Lạc Sơn tảo mộ, cầu nguyện, đảnh lễ với tiên sư, và chuẩn bị những thứ cần thiết để di chuyển di hài của linh mục Lôi về Bắc Bình. Nhưng vì đường xá xa xôi, giao thông khó khăn bởi vì mới kháng chiến thành công, nên phương tiện giao thông thiếu thốn, hàng ngàn hàng vạn nhân viên cán bộ công vụ Hoa Bắc và Đông Bắc bị kẹt lại ở Trùng Khánh không thể lên đường. Tình thế này thực sự không thể đưa linh cữu của linh mục Lôi trở về. Vì thế, linh cữu của ngài ấy cho đến hôm nay, năm 67 Dân Quốc, vẫn còn chôn nổi ở Ca Lạc Sơn Trùng Khánh.

Ngày 18 tháng 7 năm 29, Chính phủ Quốc Dân đang công khai biểu dương linh mục Lôi, toàn văn như sau:

Linh mục lôi vốn dĩ quốc tịch Bỉ, từ nhỏ đã mong muốn đi tu, kinh qua nhiều nơi khác nhau ở Bình Tân, kiến tạo sự nghiệp từ thiện, thiết lập báo đài,… đã được xã hội xem trọng từ lâu. Lần này kháng chiến chống Nhật, thành lập đội cứu thương, tận lực cứu hộ khắp nơi, thu được nhiều thành quả to lớn, vì nước vất vả quên mình, trước sau chẳng lơ là. Nay tin đột ngột qua đời, vô cùng thương tiếc, nên công khai biểu dương, để vinh danh công lao”.

Trùng Khánh mặc dù được gọi là phố núi, nhưng lại là bồn địa, tứ phía đều có sông núi bao quanh. Mùa hè nóng ẩm bức người, cái nóng dị thường không thích hợp để tổ chức những hoạt động đoàn thể. Vì thế, những người bên phía chính phủ lo việc hậu sự của linh mục Lôi liền quyết định: ngày 29 tháng 11, khi trời mùa thu trong trẻo tươi mát, sẽ tổ chức truy điệu linh mục Lôi. Bản thân tôi vì cấp bách phải trở về núi Trung Điều làm việc, nên chẳng thể lưu lại Trùng Khánh lâu dài; linh mục Ngưu vì công việc cũng đã đi Tây An. Công việc chuẩn bị cho buổi lễ truy điệu vì thế mà giao cho linh mục Phương Hảo, Phó chủ tịch kiêm Tổng biên tập Báo Ích Thế phụ trách, lãnh đạo và thúc giục.

Việc đầu tiên để chuẩn bị lễ truy điệu là trưng cầu những người tổ chức. Bởi vì phải để ý tới mọi mặt, vả lại linh mục Lôi sinh thời là người nhiều nhiệt tâm, vì vậy đương thời vạch ra nguyên tắc, người trong Giáo hội tận khả năng không kể ra, tất cả trong hơn 60 người, chỉ có hai người được tiến cử là Lục Chinh Tường và Ngô Kính Thái; còn lại là các nhân sĩ xã hội và lãnh đạo các giới. bởi vì tên tuổi rất nhiều, ở đây xin phép không liệt kê ra.

Tới tháng 11, Đoàn giám sát ở chiến địa núi Trung Điều phái 2 đại diện, là tu sĩ Lỗ Đạo đại diện Hội Dòng Gioan Tẩy Giả và thư ký Vương Hạc Hiên đại diện Đoàn giám sát, để đến Trùng Khánh, tham dự đại lễ truy điệu của linh mục Lôi.

Đại lễ truy điệu cử hành trong 2 ngày. Mở đầu, lúc 8h30 sáng ngày 28, giám mục Trùng Khánh Thượng Duy Thiện cử hành đại lễ truy điệu tại nhà thờ Từ Mẫu trên đường Thạch Bàn; trong Thánh Lễ, Đức Tổng giám mục Vu Bân giảng lễ với nội dung: “Linh mục Lôi không có gì mà có tất cả!”.

Khoảng 2h chiều ngày hôm sau, hội lưu học sinh Pháp-Bỉ cũng tổ chức “Đại lễ truy điệu linh mục Lôi” trên đường Thạch Bàn. Ủy viên trưởng Tưởng Giới thạch vốn định đích thân đến kính viếng, nhưng vì hội trường quá nhỏ mà người tham gia lại đông, nên bộ chính trị và ban trị an để bảo đảm an toàn cho họ Tưởng, đã đề nghị ông ta đừng đến. Vì thế, ông ta đã phái tướng quân Thương Trấn, chủ nhiệm văn phòng quân ủy đại diện đến kính viếng, còn văn tế thì do linh mục Phương Hào tuyên đọc.

Nguyên lão Quốc Dân Đảng Trương Phổ Tuyền lấy danh phận đồng hương với linh mục Lôi trong đại lễ cũng đứng lên chia sẻ tình hữu ái của ngài với linh mục Lôi; cuối cùng nghiêm giọng chê trách Đảng Cộng Sản là những tay đao phủ đã sát hại linh mục Lôi.

Đức Tổng giám mục Vu Bân và các danh sĩ xã hội nổi tiếng khác cũng lần lượt chia sẻ cảm tình.

Cuối cùng, tu sĩ Lỗ Đạo, thay mặt Hội Dòng Gioan Tẩy Giả nói lời tạ ơn. Anh ấy cũng vì đau đớn vô cùng, có lúc cũng nức nở không thành tiếng, và cuối cùng nức nở kết thúc bài cám ơn.

Hội trường chất đầy đối liễn và những lời phân ưu kính viếng của các giới đến tiễn biệt linh mục Lôi; Trong đó, thứ rất có ý nghĩa và thu hút nhiều ánh nhìn của mọi người chính là câu đối phúng điếu của Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch:

Minh Viễn Linh Mục  Linh giám

Bác ái chi vị nhân cứu thế tinh thần vô quý Kitô

(Bác ái gọi là nhân, tinh thần cứu thế không hổ với Chúa Kitô)

Uy vũ bất năng khuất tất sinh sự nghiệp tẫn tụy Trung Hoa.

(Uy vũ không thể che, sự nghiệp cả đời tận tụy với Trung Hoa?)

Tưởng Trung Chính kính vãn.

Phụ lục 1: MỘT TRÁI TIM TRUNG QUỐC

Linh Mục Lôi Minh Viễn Nhiệt Tâm Ái Quốc

Đừng nhìn mũi của tôi!

Đừng xem mắt của tôi!

Phải nhìn thấu tới con tim của tôi!

Tôi là một người trung quốc bản địa đích thực!

Lôi Minh Viễn, tên tuổi âm vang này, hơn 80 năm trước đây, đã bắt đầu tạo tiếng vang giữa vùng đất Hoa Bắc; ngài ấy giống như nhân vật chính trong các câu chuyện, không chỉ lưu truyền tiếng tăm trong cộng đồng Kitô giáo mà thôi, mà còn chầm chậm lan tỏa ra toàn thế giới; truyện tích của ngài ấy đến đây dừng lại, chí ít đã được viết hoặc phiên dịch ra bảy thứ tiếng khác nhau, như: tiếng Trung, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Việt. Tới hôm nay, dù đã qua đời 50 năm rồi, nhưng ngày 24 tháng 6 mỗi năm, tại nhiều nơi khác nhau vẫn không ngừng cử hành những hành động tưởng nhớ và tri ân khác nhau. Năm nay ở Đài Loan và Bỉ cũng cử hành những buổi lễ kỷ niệm hoành tráng. Bên cạnh đó, những công trình kỷ niệm có tính cách lâu dài, như trường học Minh Viễn, phòng khám Minh Viễn, bảo tàng kỷ niệm Minh Viễn, tượng đồng Minh Viễn, Minh Viễn Truyền Kỳ, phim chuyện về Minh Viễn,… cũng lần lượt xuất hiện tại nhiều nơi. Năm 1977, khi kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ngài ấy, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã đem bài vị tiếng Anh của ngài đem vào trong đài tưởng niệm các liệt sĩ ở Đài Bắc, để mọi người công khai tưởng nhớ và chiêm ngưỡng gương mẫu của ngài.

Tại sao nhân sĩ xã hội, đặc biệt là Trung Hoa Dân Quốc lại kính nhớ ngài ấy như thế? Trước tiên xem câu đối phúng điếu mà tổng thống Tưởng Giới Thạch đã viết tặng linh mục Lôi, thông điệp của nó dường như đã nói rõ tất cả. Câu đối ấy viết rằng:

Minh Viễn Linh Mục  Linh giám

Bác ái chi vị nhân cứu thế tinh thần vô quý Kitô

(Bác ái gọi là nhân, tinh thần cứu thế không hổ với Chúa Kitô)

Uy vũ bất năng khuất tất sinh sự nghiệp tẫn tụy Trung Hoa.

(Uy vũ không thể che, sự nghiệp cả đời tận tụy với Trung Hoa?)

Tưởng Trung Chính kính vãn.

Ở đây ghi lại một vài sự tình trong cuộc đời của linh mục Lôi làm lời chú thích cho câu đối phúng điếu trên.

Vì Trung Quốc mà sinh

Lôi Minh Viễn, tự Chấn Thanh, tên tiếng Tây là Vincent Lebbe, sinh ngày 29 tháng 8 năm 1877 tại Bỉ, trong một gia đình Công Giáo nhiệt thành. Khi 11 tuổi, một ngày nọ, mẫu thân của ngài ấy đem ngài ấy đến một tu viện thăm viếng một vị nữ tu; để ngài ấy khỏi chạy loạn làm ầm ĩ, vị nữ tu ấy đã đưa cho ngài ấy mấy bức họa và mấy cuốn sách nhỏ; trong đó có một cuốn sách là truyện ký về linh mục Đổng Văn Học, tên thật là John Gabriel Perboyre, là người đã đến Trung Quốc truyền giáo và tuẫn đạo tại đó. Khi Lôi Minh Viễn nhìn thấy những bức bích họa khắc họa phong cảnh và những người Trung Quốc, thì đã lập tức yêu mến và kết duyên trăm năm với Trung quốc. Sau khi trở về nhà, ngài ấy công khai tuyên bố với cả gia đình, khi lớn lên sẽ đi Trung Quốc truyền giáo.

Sau này, khi nhớ lại sự kiện ấy, ngài ấy không cho rằng đó là một cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên, ngài ấy cho rằng đó là sự sắp xếp của Thiên Chúa, nên ngài nói: “Tôi vì Trung Quốc mà sinh, tôi đến trung Quốc phục vụ là thiên chức của tôi, là sứ mệnh của tôi!”.

Trở thành người Trung Quốc

Linh mục Lôi Minh Viễn là người thực tế mười phân vẹn mười. Ngài ấy một khi đã nói ra thì ắt sẽ hành động, và đây chính là một trong những đặc tính làm người của ngài ấy. 18 tuổi gia nhập Dòng Thừa Sai Vinh Sơn, một trong những hội dòng đang truyền giáo tại Trung Quốc. Đương thời, một dải từ Bình Tân, Bảo Định, Chính Định tới tận Hà Bắc đều là khu vực truyền giáo của hội dòng này. Năm 24 tuổi, tức năm 1901, linh mục Lôi đến Trung Quốc, và tiến chức linh mục một năm sau đó.

Linh mục Lôi khi ấy không chỉ vì Trung Quốc phục vụ, mà còn noi gương tinh thần “Trở nên tất cả cho tất cả” của thánh Phaolo, muốn tận khả năng trở nên giống như người Trung Quốc: ăn mặc theo lối phục trang bản địa, dùng đũa ăn cơm; đương thời nam nhân Trung Quốc vẫn còn đang để tóc thết búi, ngài ấy muốn lập tức trở thành người Trung Quốc, nên liền viết thư cho em gái của ngài ấy, muốn cô ấy cắt mái tóc vàng của cô ấy gửi cho ngài, để ngài ấy thết búi rồi đội lên đầu; ngài ấy khi học tiếng Trung Quốc, không giống như những người nước ngoài khác dùng phiên âm La Tinh để học, ngài ấy trực tiếp nhận biết chữ tiếng Trung, đọc sách tiếng Trung, và hấp thụ văn hóa Trung Quốc; ngài ấy luôn mang bên mình một bộ tứ thư bỏ túi, mỗi ngày nghiên cứu một chút, lâu dần ngài ấy có thể đọc nó thuộc lòng như cháo.

Linh mục Lôi cũng dùng bút lông để viết chữ Trung Quốc. Ngài viết chữ Hành Thư rất đẹp. Ngài ấy cũng rất hiểu chữ bút lông không phải là thứ vừa viết đã thành thạo, mà cần phải xuất ra rất nhiều công phu luyện tập, mới có thể có thành tựu. Ngài ấy viết thư, viết nhật ký hoặc các văn tự khác, chỉ cần là tiếng Trung, ngài ấy hết sức có thể sẽ dùng bút lông để luyện tập viết chữ tiếng Trung. Ngoài ra, ngài ấy cũng rất say mê và hứng thứ luyện viết chữ thư pháp. Khi công việc tại chiến địa bấp bênh vô định, ngài ấy cũng không bỏ việc luyện tập viết bút lông. Sau một ngày làm việc vất vả, tới khi đêm về, ngài ấy sẽ tìm một phiến đá bằng làm nghiên đài, đem mực thơm luôn cất giữ bên mình làm thành nghiên mực, dùng bút lông để viết nhật ký hằng ngày. Bất cứ ai khi xem qua chữ ngài ấy viết, cũng sẽ không tin tưởng, đó quả thật là chữ mà người ngoại quốc viết.

Ngài ấy vì để hội nhập sâu xa vào trong nền văn hóa Trung Quốc, để triệt để trở nên một người Trung Quốc đích thực, quả thực đã bỏ ra rất nhiều tâm tư cũng như công phu luyện tập, đồng thời cũng rất khiêm tốn nhận sự chỉ giáo. Đây viết xuống một câu chuyện nhỏ, có thể nhìn ra sự vất vả trong những nỗ lực của ngài ấy. Tên tiếng Trung của ngài ấy vốn dĩ là 雷明遠; nhưng từ sau khi kết thân với nhà văn Thiên Chúa giáo, tên Anh Liễm, ông anh đã khuyên linh mục Lôi đổi chữ “”thành chữ “”. Linh mục Lôi lúc đầu không cho là phải, lại còn nói: “Có lôi ắt phải có điện quang, vì vậy giữ chữ “” cũng rất hợp tình hợp lý mà!”. Ông Anh nửa đùa nửa thật nói với linh mục Lôi: “Cha à, khi nào cha có thể lĩnh hội ra chữ “” thanh nhã hơn chữ “”, thì trình độ tiếng Trung của ngài có thể đã bước vào cảnh giới ảo diệu rồi!”. Linh mục Lôi đáp: “Vậy thì bây giờ tôi đổi vậy!

Một quả tim Trung Quốc

Năm thứ 16 Dân Quốc, linh mục Lôi chính thức nhập quốc tịch Trung Quốc, gọi là người Thiên Tân; nhưng ngài ấy nói, con tim của ngài ấy sớm đã là người Trung Quốc rồi! thật sự có thể nói, ngoài mắt xanh mũi lõ không thể sửa, ngài ấy đã hoàn toàn biến thành người Trung Quốc rồi!

Năm 22 Dân Quốc, trong thời gian kháng chiến Trường Thành, linh mục Lôi đã dắt hơn 30 tu sĩ và hơn 200 giáo dân thi hành công tác cứu thương trên hỏa tuyến. Ngày nọ, có một phóng viên chiến trường thu thập tin tức và quay phim chụp ảnh. Anh ta nhìn thấy một người ngoại quốc, chính là linh mục Lôi Minh Viễn, đang trộn lẫn trong đám đông người bản địa, cấp cứu cho những người Trung Quốc bị thương; anh ta cảm thấy rất kinh ngạc, nên đã xin linh mục Lôi cho phép anh ta chụp ảnh và quay phim. Khi quay phim, anh ta xin linh mục Lôi tùy ý nói vài lời. Linh mục Lôi sau một vài giây suy nghĩ đã phát biểu một câu rất cao nhã nhưng cũng rất giàu ý nghĩa và hài hước, ngài ấy thuận theo thế tay vô cùng tự nhiên nói: “Đừng nhìn vào mũi tôi (lấy tay chỉ vào sống mũi), cũng đừng nhìn vào trong mắt tôi (lấy tay chỉ vào mắt phải), nhưng phải nhìn sâu vào con tim son sắt của tôi (lấy tay chỉ vào con tim), tôi là một người Trung Quốc thuần túy!

Phàm là người đã có thời gian lâu dài tiếp xúc với linh mục Lôi, ai ai cũng đều kinh ngạc mà nói cảm khái: “Một người Trung Quốc nhập tịch yêu Trung Quốc hơn cả những người Trung Quốc thuần túy!”. Ngài ấy đến Trung Quốc vào năm thứ hai sau khi liên quân tám nước xâm chiếm và xâu xé Trung Quốc. Ngài ấy nhìn thấy người ngoại quốc áp bức người Trung Quốc, ngài ấy nhìn thấy “Tô giới”, nhìn thấy vô vàn những hiệp ước bất bình đẳng mà cảm thấy phẫn nộ vô cùng. Ngài ấy thề sẽ đứng về phía người Trung Quốc.

Năm thứ 5 Dân Quốc, khi ngài ấy còn ở Thiên Tân truyền giáo và làm Báo Ích Thế, người Pháp cưỡng chế đem vùng đất “Lão Tây Khai”-Thiên Tân nhập vào tô giới Pháp, chính quyền Bắc Kinh sợ hãi uy thế của người Pháp, nên đã nhắm mắt làm ngơ. Linh mục Lôi không như thế, ngài đứng về phía chính nghĩa phản đối người Pháp, cũng như bóc trần âm mưu của chủ nghĩa đế quốc trên Báo Ích Thế, làm dấy lên tinh thần yêu nước nồng nàn của dân chúng Thiên Tân. Đáng tiếc, cuộc vận động quốc dân ái quốc lần này thiếu đi sự ủng hộ nhất định của chính phủ, nên chẳng có thành công; ngược lại, linh mục Lôi còn bị cưỡng ép trở lại Châu Âu. Nhưng, cái tên “Lôi Minh Viễn” từ đây đã vang động khắp bốn bể năm châu: phần tử chủ nghĩa đế quốc căm ghét, hận thù ngài, những đồng bào ta và các nhân sĩ quốc tế yêu chuộng chính nghĩa đều yêu thương quý mến ngài.

Ngài ấy vì để giải trừ vô số những hiểu lầm của đồng bào ta với Công Giáo La Mã, đã hô hào xóa bỏ “Quyền bảo hộ tôn giáo của Pháp Quốc”; và để thúc đẩy thành lập Giáo hội địa phương, người ấy đã đề xướng “Người Trung Quốc dẫn dắt người Trung Quốc”; nên đi đến đâu truyền giáo, ngài ấy cũng không ngừng nhắc đến khẩu hiệu: “Trung Quốc quy về người Trung Quốc, người Trung Quốc quy về Chúa Kitô”; ngài ấy hy vọng Giáo hội Trung Quốc sẽ có diện mạo Trung Quốc. Để đạt được mục tiêu ấy, ngài ấy ngoài việc đi khắp nơi diễn thuyết, cũng đã nhiều lần gửi những bức thư dài đến vạn chữ về cho Giáo triều La Mã.

Vì công việc đại sự này, ngài ấy đã phải chịu rất nhiều đau khổ. Ngài ấy dựa vào chín chữ “Toàn hy sinh, thật yêu người, thường vui vẻ” để yêu Chúa yêu người; đặc biệt là để nâng cao địa vị quốc tế của nước ta. Ngài ấy đã hy sinh địa vị danh dự và sự hưởng thụ, dùng tình thần “Mười phân vẹn mười” cũng như tâm cảnh và thái độ “Thường lạc quan” chào đón sự tấn công từ mọi mặt. Chiến đấu hơn 20 năm, ngài ấy cuối cùng cũng nhìn thấy thành quả nỗ lực của bản thân: ngày 28 tháng 10 năm 1926, Đức Giáo Hoàng Piô XI, vị tông đồ Trung quốc đã tiếp nhận kiến nghị của linh mục Lôi; tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, đã phong chức cho nhóm 6 vị giám mục Trung Quốc đầu tiên. Linh mục Lôi cũng có mặt tham gia vào đại lễ chúc phong này. Ngài ấy vui mừng đến độ rơi nước mắt trong khoảng 2h liền, và cũng dẫn lại lời của ông lão Simêon: “Muôn lạy Chúa, xin để tôi tớ này ra đi. Vì chính mắt con đã thấy…” Luca 2,29.  Linh mục Lôi rất vui mừng khi thấy những người da trắng, những người thường rất coi trọng sự ưu việt của dòng máu, quỳ trước những người Trung Quốc mà họ luôn luôn coi thường, hôn “Nhẫn giám mục” trên tay họ.

Năm thứ 16 Dân Quốc, dưới sự hiệp trợ đắc lực của giám mục Tôn Đức Trinh, một trong những giám mục đầu tiên được chúc phong, linh mục Lôi đã được quay trở lại Trung Quốc, quê hương thứ 2 mà ngài ấy rất yêu quý, để tiếp tục thi hành công việc truyền giáo tại giáo phận An Quốc, Hà Bắc, nơi giám mục Tôn Đức Trinh đang săn sóc mục vụ. Linh mục Lôi vì sớm để cho bản thân thực sự trở thành người Trung Quốc; trong năm đó linh mục Lôi đã nhận được chứng nhận “Thân phận pháp nhân”, chính thức trở thành người Trung Quốc, và được gọi là người Thiên Tân.

Năm 17 Dân Quốc, ngài ấy lập 2 tu hội bản địa, một Tu hội nam là Gioan Tẩy Giả, một khác là tu hội nữ Têrêsa. Ngài ấy đã chiêu mộ không ít đệ tử, chuẩn bị để phục vụ Trung Quốc cách tốt hơn.

Người Trung Quốc đương thời không được người da trắng xem trọng, nhưng linh mục Lôi lại lấy danh hiệu ấy làm danh xưng vinh quang nhất. Nhớ sau biến sự “Thất thất”, quân ta ở Phong Đài, Bắc Bình đã giành được một chiến thắng cực kỳ đẹp; khi báo chí loan tin này tới huyện An Quốc, huyện trưởng Trương Ngưỡng Văn đã mở một đại hội “Mừng công” rất lớn vào ngày 29 tháng 7, ước có khoảng  5000 người tham gia. Linh mục Lôi và chúng tu sĩ cũng được mời phát biểu, diễn thuyết trong buổi lễ ấy. Khi linh mục Lôi đi lên sân khấu diễn thuyết cho dân chúng, huyện trưởng Trương đã nói với mọi người: “Mọi người xem vị này (tay chỉ về phía linh mục Lôi) là người Trung Quốc hay là người ngoại quốc?” dưới đài sân khấu hàng người đều đồng thanh hô lớn: “Người Trung Quốc!”

Linh mục Lôi vui mừng vô cùng, ngài ấy bắt đầu diễn thuyết: “Vâng! Mọi người nói đúng rồi! tôi là người Trung Quốc, là một người Trung Quốc xịn! Tôi từ năm 11 tuổi đã ước mong trở thành người Trung Quốc, và đến năm 16 Dân Quốc đã nhập tịch Trung Quốc! Vâng! Tôi là người Trung Quốc, tôi chấp nhận Trung Quốc chúng ta, tôi không lâu nữa thì sẽ dẫn dắt chúng tu sĩ và giáo dân tới tiền tuyến cứu giúp những tướng sĩ bị thương vì bảo vệ chúng ta, các vị có nguyện ý đi cùng tôi không?

Nguyện ý đi!” đại hội mừng công vì thế mà cũng kết thúc trong sự hưng phấn vui vẻ.

Tại sao làm người Trung Quốc

Đầu tháng 10 năm 27 Dân Quốc, linh mục Lôi theo điện triệu của Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch, từ núi Trung Điều ở tiền phương tới Hán Khẩu bàn luận kế hoạch “Mở rộng công việc kháng chiến cứu quốc”. Ngày nọ, có một ký giả người Pháp đến phỏng vấn linh mục Lôi, hỏi ngài ấy tại sao lại nhập tịch Trung Quốc, làm người người Trung Quốc. Linh mục Lôi trả lời rất cao diệu, và cũng rất thỏa đáng. Ngài ấy nói: “Đức Kitô vốn dĩ là Con Thiên Chúa, tại sao lại giáng sinh thành người thế? Vốn dĩ là để cứu tất cả mọi người. Thánh Phaolo tông đồ cũng thế, ngài ấy noi gương Đức Kitô, cũng “Trở nên tất cả cho tất cả mọi người”. Tôi mặc dù bất tài, cũng chẳng dám cáng đáng, nhưng tôi nguyện noi theo dấu chân của Chúa Kitô và thánh tông đồ Phaolo, tức là đến Trung Quốc truyền giáo, cũng là hiến thân cho giáo hội Trung Quốc, nên tôi cần phải yêu mến nó, tận khả năng trở nên giống nó.

Tẫn tụy Trung Hoa

Sau khi linh mục Lôi qua đời, câu đối phúng điếu mà Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch trao tặng là câu trả lời thích đáng nhất. Linh mục Lôi sở dĩ yêu Trung Quốc, nhập tịch Trung Quốc, và trở thành một người Trung Quốc, hoàn toàn dựa trên tinh thần “Bác ái” Kitô, chứ hoàn toàn không giống như những người xuyên tạc con tim sắt son của ngài ấy, nói ngài ấy, nào là chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, nào là tác phong điên khùng, hoặc là nói ngài ấy là một “Quái nhân”.

Trước đây đã nói qua, linh mục Lôi là một người thực tiễn. Ngài ấy không chỉ hô hào khẩu hiệu yêu Trung Quốc mà thôi, cũng không chỉ chê trách giáo hội Trung Quốc đương thời đã bị âu hóa quá đậm, thậm chí còn bị chụp lên đầu nhiều nỗi oan khiên. Ngài ấy là người nghĩ là làm, không chỉ làm mà thôi, nhưng là làm cách tích cực không biết mệt mỏi.

40 năm truyền giáo ở Trung Quốc của linh mục Lôi, những gì đã làm được thật là nhiều vô xiết kể. Ngoài việc chu đoàn các công việc truyền giáo hằng ngày, ngài ấy thường ngày hay giảng đạo, truyền bá Phúc Âm, thành lập “Báo Ích Thế” ở Thiên Tân và Bắc Bình, cổ vũ và mở trường học, đầu tư cho lưu học sinh (trước sau hơn 500 người), thành lập và dẫn dắt những Hội Công Giáo Tiến Hành, thành lập Dòng Gioan Tẩy Giả và Têrêsa để trợ giúp bản thân mở sâu độ sâu cũng như độ rộng trong việc phục vụ Trung Quốc.

  Sau biến sự “918” năm 20 Dân Quốc, linh mục Lôi, một người yêu nước nồng nàn hăng say, đã thông qua Báo Ích Thế do chính ngài sáng lập kêu gọi chính phủ dẫn dắt toàn dân kháng chiến cứu quốc, thu về lại đất đai đã mất. Kháng chiến Trường Thành năm 22, chiến dịch bình định phía đông năm 25, ngài ấy đều dùng hành động, tổ chức đội cứu thương và dẫn dắt họ lên tiền tuyến cứu giúp thương binh, tổng cộng lên đến hơn 300 người, bao gồm cả tu sĩ Dòng Gioan Tẩy Giả và giáo dân. Ngày 7 tháng 7 năm 26, kháng chiến toàn diện được ban bố, ngài ấy đã tổng động viên tu sĩ nam nữ của hai Hội Dòng Gioan Tẩy Giả và Têrêsa tạm thời gác lại các công việc tu tập hằng ngày, một lòng tòng quân cứu giúp những người bị thương trên chiến trường; trước sau đã chiêu mộ hơn 600 giáo dân, tổ chức Đội cứu thương, Bệnh Viện Dã Chiến, Đoàn giám sát phục vụ chiến địa; không những thế, cả một dải chiến địa nối liền từ núi Trung Điều đến núi Thái Hành, ngài ấy còn cứu giúp những dân thường bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, ra sức cứu tế nạn dân, mở trường dạy dỗ những đứa trẻ thất học, tổ chức dân chúng hiệp trợ quân nhân kháng chiến. Ngoài ra, ở chiến địa, trước sau ngài ấy đã xuất bản nhiều loại báo chí khác nhau, như: Nguyệt Báo “MỌI NGƯỜI XEM”; “Tuần Báo Giám Sát Chỉ Đạo”; “Nhật Báo Bắc Nguyên”;… để bồi dưỡng quân dân ý thức ái quốc, khích lệ họ hăng say kháng chiến, dẫn dắt mọi người cứu quốc bằng hành động.

Thành tích công việc của những lãnh vực lên là không thể kể xiết; nhưng đáng quý hơn cả là những thứ tinh thần “Không cần lương, chỉ cần công việc” cũng như “Thà hi sinh bản thân, chứ không để mất đi bất cứ thương binh nào” mà linh mục Lôi, chúng tu sĩ, cũng như những giáo dân cộng tác với ngài ấy thực hiện, đã góp phần rất rất lớn động viên cổ vũ và gia tăng nhuệ khí kháng chiến của quân dân nước ta.

Quân đoàn trưởng Quân đoàn 13 Tăng Vạn Đồng và Sư đoàn trưởng Sư đoàn 12 Đường Ngọc Nguyên, không chỉ một lần biểu tả điều đó với linh mục Lôi: “Mọi người đã cứu lấy hàng ngàn thương binh, công lao quả nhiên không nhỏ, nhưng sự cổ vũ lớn lao đối với nhuệ khí của toàn quân lại càng là công lao lớn hơn và đại sự hơn. Quân nhân không sợ đánh nhau, cũng không sợ chết trận, mà chỉ sợ không may bị thương thì sẽ không có người cứu. Tướng sĩ toàn quân chúng tôi đều có cùng cảm nhận này: Có đội cứu thương mọi người ở đây, khí thế toàn quân như rồng như hổ! Mọi người quả thật là trụ cột tinh thần của toàn quân chúng tôi!

Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch đối với đối với cộng việc kháng chiến mà linh mục Lôi lãnh đạo cũng đã nhiều lần tán thưởng, và từng nói qua: “Thứ mọi người làm, sau này không thể lập lại! và cũng không thể làm tốt như thế được!

Chết vẫn không thôi

Mùa xuân năm 29, quân đoàn 18 ở khu vực núi Thái Hành làm phản, đã đánh tan Trung Lâm Cục của chính phủ Hà Bắc; 13 tu sĩ Dòng Gioan Tẩy Giả và không ít giáo dân cũng bị sát hại dã man. Khi ấy, linh mục Lôi đang ở núi Thái Hành chỉ huy công việc, cũng bị phản quân bắt và bị giam giữ hơn 40 ngày, đồng thời cũng phải chịu đựng nhiều bức hại. Do sự uy hiếp của các cuộc thẩm vấn cũng như các buổi tẩy não mệt mỏi kéo dài, sức khỏe thân thể của linh mục Lôi ngày càng tiều tụy, dẫn đến tình trạng bệnh tật nghiệm trọng. Ngày 24 tháng 6 cùng năm thì tuẫn quốc, về với Thiên Chúa.

Linh mục Lôi vì Trung Quốc mà sinh, cũng lại vì Trung Quốc mà chết. Chính phủ và nhân dân đều đồng thanh tưởng nhớ và truy điệu. Ngày 18 tháng 7 Chính phủ Quốc dân công khai khen thưởng:

Linh mục Lôi vốn dĩ quốc tịch Bỉ, từ nhỏ đã mong muốn đi tu, kinh qua nhiều nơi khác nhau ở Bình Tân, kiến tạo sự nghiệp từ thiện, thiết lập báo đài,… đã được xã hội xem trọng từ lâu. Lần này kháng chiến chống Nhật, thành lập Đội cứu thương, tận lực cứu hộ khắp nơi, thu được nhiều thành quả to lớn, vì nước vất vả quên mình, trước sau chẳng lơ là. Nay tin đột ngột qua đời, vô cùng thương tiếc, nên công khai biểu dương, để vinh danh công lao

Chủ Tịch Lâm Sâm                 

Viện trưởng Viện Hành Chánh     Tưởng Trung Chính

Một đời người đã tận, lẽ nào cứ như thế mà nhắm mắt thiên thu? Không! Linh mục Lôi đã nói: “Gia Cát Lượng nói ‘Cung cúc tẫn tụy đến chết mới thôi!’; còn cha, ắt sẽ là ‘Chết cũng không thôi!’ sau khi cha qua đời rồi, vẫn sẽ luôn cầu nguyện cho sự phục hưng Trung Quốc”.

Không chỉ như thế, tinh thần của linh mục Lôi mãi mãi sống trong lòng mọi người.

Phụ Lục 2: Lý Lịch Giản Lược Của Linh Mục Lôi Minh Viễn

  • Ngày 19 tháng 8 năm 1877: xuất sinh tại nước Bỉ.
  • Năm 1878: chuyển đến Brugge, linh mục Lôi được 1 tuổi; và em trai của ngài được sinh ra sau đó 1 năm rưỡi.
  • Năm 1883: 6 tuổi, chuyển đến Pari và theo học tiểu học tại đây.
  • Năm 1886: 9 tuổi, quay trở lại Bỉ sinh sống.
  • Năm 1888: 11 tuổi, quyết tâm ra nhập Hội Truyền Giáo Vinh Sơn và qua Trung Quốc.
  • Năm 1889: 12 tuổi, gia nhập trường trung học thánh Vinh Sơn và lần đầu tiên lãnh Thánh Thể.
  • Năm 1892: 15 tuổi, yêu tha thiết một thiếu nữ, ơn gọi phát sinh dao động, trong một thời gian ngắn chiến thắng tình cảm, ý chí qua Trung Quốc trở nên mạnh mẽ hơn.
  • Năm 1895: 18 tuổi, tốt nghiệp trung học, ngày 6 tháng 11 cùng năm qua Pari, gia nhập Hội Truyền Giáo Vinh Sơn.
  • Năm 1896: 19 tuổi, tháng 9 bắt đầu học triết học.
  • Năm 1897: 20 tuổi, ngày 7 tháng 11, phát nguyện ba lời khấn.
  • Năm 1898: 21 tuổi,
  • Ngày 31 tháng giêng kết giao với linh mục Cotta.
  • Ngày 4 tháng 6 linh mục Cotta qua Madagascar truyền giáo.
  • Ngày 23 tháng 9 cùng năm, qua Dax đi học.
  • Năm 1899: 22 tuổi, tháng 9 vì bệnh nên đi hành hương Lộ Đức.
  • Năm 1900: 23 tuổi, đầu năm mắc bệnh thương hàn; sau đó mắc bệnh về mắt và đau đầu, nên không thể đi học.
  • Ngày 14 tháng 5 cùng năm trở lại Pari.
  • Ngày 9 tháng 6 cùng năm lãnh chức Giúp lễ (chức 4) (Bộ luật năm 1150 cũng chỉ ghi lại 7 Chức: Người giữ cửa, Đọc sách, Trừ Quỉ, Giúp lễ, Phụ Phó tế , Phó tế, và Linh mục.)
  •  Sau đó, tới tháng 8 thì trở về gia đình nghỉ dưỡng, và tháng 10 qua Roma.
  • Năm 1901: (Quang Tự năm 27) 24 tuổi.
  • Ngày 10 tháng 1, nhận được thư của cha hội trưởng của tổng hội tại Pari cho phép qua Trung Quốc.
  • Ngày 15, quay lại Pari, Pháp.
  • Ngày 10 tháng 2 lên thuyền đến Trung Quốc.
  • Ngày 16 tháng 3 đến Thượng Hải, cuối tháng đến Bắc Kinh.
  • Ngày 15 tháng 8 nhậm chức giáo sư đại chủng viện.
  • Ngày 28 tháng 10 được truyền chức linh mục, sau đó cùng giám mục Jarlin đi thị sát giáo phận Kinh Đông.
  • Năm 1902: (Quang Tự năm 28), 25 tuổi, ngày 20 tháng 1: đảm nhiệm vai trò phụ tá cho linh mục hạt trưởng Đồn, tại Đại Khẩu, Kinh Đông.
  • Năm 1903: 26 tuổi, điều chuyển đến làm Chánh xứ tại thôn Tiểu Hàn, huyện Vũ Thanh. Sau đó lại chuyển đến làm cha Chánh xứ tại Hoàng Hậu Điếm và những nơi khác.
  • Năm 1904: 27 tuổi, thay đổi và áp dụng phương pháp truyền giáo của thánh Phaolo (vui với người vui; khóc với người khóc).
  • Năm 1905: 28 tuổi, giám mục Favier qua đời, giám mục Jarlin rời giáo phận Bắc Kinh, được bổ nhiệm làm linh mục quản hạt Trác Châu.
  • Năm 1906: 29 tuổi, tháng 9 nhậm chức quản hạt, giáo hạt Thiên Tân.
  • Năm 1907: 30 tuổi, tiến hành việc trao đổi phái viên giữa Trung Quốc và Toà Thánh.
  • Năm 1908: 31 tuổi, bắt đầu tiến hành vận động thành lập hàng giáo phẩm địa phương.
  • Năm 1909: 32 tuổi, cùng linh mục Selinka sáng lập Hội Từ Thiện Truyền Bá Đức Tin tại vùng Diệm Sơn, Thiên Tân.
  • Năm 1910: 33 tuổi, tham gia hội Hồng thập tự, sáng lập trường pháp chính, đảm nhận chức vụ giáo sư xã hội học, xuất bản giáo trình xã hội học,…
  • Năm 1911: 34 tuổi, chính thức thành lập Hội Truyền Bá Đức Tin tại Thiên Tân, mở rộng hoạt động, và thành lập nơi tuyên truyền Cửu Tước.
  • Năm 1912: 35 tuổi, xuất bản tờ Quảng Ích Lục làm tiền đề cho nhật báo Ích Thế. Thành lập hội Công Giáo tiến hành.
  • Tháng 4, Thiên Tân phân tách giáo phận, Đức cha Dumond trở thành Giám mục đầu tiên và nhậm chức ngày 4 tháng 7.
  • Năm 1913: 36 tuổi, tháng 6, qua Âu Châu lạc quyên, thuận lợi đi qua Pháp, Bỉ, Ý, Anh, Hà Lan,… được quen biết Đức Hồng Y Mercier cũng như giám đốc của một vài nhật báo.
  • Năm 1914: 37 tuổi, tràn đầy sức sống trở lại Thiên Tân và tích cực mở rộng công việc.
  • Cuối tháng 10, tổ chức đại hội Công Giáo tiến hành toàn quốc tại Thiên Tân.
  • Năm 1915: 38 tuổi, tháng 4 mở đại hội cứu quốc tại Thiên Tân, và bắt đầu xuất bản báo Ích Thế từ ngày 1 tháng 11.
  • Năm 1916: 39 tuổi,
  • Xuất bản báo Ích Thế tại Bắc Kinh. Vụ Lão Tây Khai nổi lên.
  • Ngày 24 tháng 62 bị lưu đày ở Chính Định.
  • Tháng 9, được  điều về Hà Gia trang làm linh mục phó. Cha Cotta và cha Lôi riêng rẽ viết đơn gửi cho Rôma, kiến nghị lập hàng giáo phẩm địa phương.
  • Năm 1917: 40 tuổi
  • Tháng 1, tiếp nhận thư hồi âm từ phía Rôma.
  • Tháng 3, đặc phái viên của tổng viện ở Pari đến điều tra.
  • Ngày 25 cùng tháng bị lưu đày đến Gia Hưng.
  • Tháng 4 tại Ninh Ba, giám mục Reynard đến nơi này truyền giáo, ngay lập tức linh mục Lôi được bổ nhiệm làm quản hạt Thiệu Hưng.
  • Ngày 18 tháng 9, gửi bản thảo “Đại hiến chương truyền giáo” cho giám mục Reynard.
  • Năm 1918: 41 tuổi, Toà Thánh sai phái đại sứ đến Trung Quốc, nhưng vì Pháp ngăn cản mà phải dừng lại.
  • Năm 1919: 42 tuổi
  • Toà Thánh đặc phái giám mục Lecroart đến Trung Quốc thị sát giáo vụ, và cho phát hành 32 điều khoản có liên quan đến vấn đề giáo vụ ở Trung Quốc, đồng thời lệnh cho linh mục cũng như giáo dân toàn quốc hợp tác (nhiều giáo phận vẫn chưa công bố hoặc công bố không đầy đủ, thiếu sót nhiều)
  • Ngày 30 tháng 11, Tòa Thánh ban bố khắp nơi thông điệp “Maximum Illud” ( sự kiện lớn nhất)
  • Năm 1920: 43 tuổi
  • Quay lại Âu Châu phát động công tác hiệp trợ du học sinh Trung Quốc.
  • Ngày 27 tháng 12 qua Rôma, 20 ngày yết kiến chung bộ trưởng bộ truyền giáo Đức tin Toà Thánh, giải quyết vấn đề Giám mục Trung quốc.
  • Ngày 28 yết kiến Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV, thuyết phục Đức Thánh Cha đối với vấn đề tấn phong Giám mục Trung Hoa.
  • Ngày 27 tháng giêng năm sau (1921) quay về nước Bỉ.
  • 1921: 44 tuổi, tích cực triển khai công việc trợ giúp du học sinh Trung quốc.
  • Năm 1922: 45 tuổi, thuyết phục Cha Boland, hiệp trợ du học sinh. Đức Thánh Cha Biển Đức XV băng hà, Đức Thánh Cha Pio XI kế vị, phái đại diện tòa thánh Cương Hằng Nghị đến Trung Quốc.
  • Năm 1923: 46 tuổi, sáng lập Hội Thanh Niên Công Giáo Trung Hoa ở Pari, mở rộng đến Bỉ, và xuất bản tuần san tiếng Hoa ở Leuven. Thành lập hội thân hữu Trung-Bỉ.
  • Năm 1924: 47 tuổi, tại Leuven xuất bản tờ Nguyệt san thanh niên Trung Quốc bằng tiếng Pháp. Số du học sinh được nhận viện trợ đã đạt tới hơn 300 người.
  • Năm 1925: 49 tuổi.
  • Ngày 11 tháng 4, lại được triệu lần nữa đến Toà Thánh Rôma, được biết giáo phận đầu tiên do người Trung Quốc quản lý được thành lập ở Tuyên Hóa.
  • Ngày 28 tháng 10, Đức Thánh Cha tự tay tấn phong 6 vị Giám mục Trung Quốc. Trong nghi thức, linh mục Lôi đã khóc nức nở gần 2 tiếng đồng hồ vì vui sướng.
  • Ngày 3 tháng 11, gửi điện tín đến linh mục Boland, thành lập Hội Trợ Tá Thừa Sai Quốc Tế.
  • Năm 1927: 50 tuổi
  • Ngày 11 tháng 2 lên đường trở lại Trung Quốc, đêm vọng Chúa Nhật chúa chịu nạn đã đến An Quốc, và nhậm chức quản hạt Cao Gia Trang.
  • Ngày 8 tháng 7, nhập quốc tịch Trung Quốc.
  • Tháng 10 thành lập hội Công giáo tiến hành tại Tuyên Hóa. Mùa đông, đề nghị thành lập Hội Dòng Gioan Tẩy Giả.
  • Năm 1928: 51 tuổi
  • Ngày 1 tháng 7, tổ chức đại hội Công giáo tiến hành toàn giáo phận. Đề nghị thành lập Dòng nữ Têrêsa.
  • Ngày 16 tháng 12, nhóm tiểu đệ đầu tiên cử hành nghi thức mặc áo dòng tại An Quốc.
  • Năm 1929: 52 tuổi, ngày 3 tháng 10, Dòng tiểu muội Têrêsa khánh thành nhà mới tại An Quốc.
  • Năm 1933: 56 tuổi
  • Mùa xuân thành lập đội cứu thương, tham gia kháng chiến Trường Thành.
  • Tháng 8, ra khỏi hội truyền giáo Vinh Sơn.
  • Ngày 24 tháng 12, tuyên khấn trọn đời trong hội dòng Gioan Tẩy Giả.
  • Năm 1934: 57 tuổi, mở rộng tổ chức 2 hội dòng Gioan Tẩy Giả và Têrêsa, dự định phân bố trên toàn quốc, và thành lập viện giáo dưỡng thương phế binh.
  • Năm 1936: 59 tuổi, Tuy Viễn nổ ra chiến tranh, lại tổ chức đội cứu thương.
  • Năm 1937: 60 tuổi
  • Thành lập hội nữ trợ tá phục vụ Minh Viễn tại Bỉ.
  • Sau biến sự “thất thất”, ngày 19 tháng 7 ra lệnh tổng động viên.
  • Ngày 2 tháng 8 lập di chúc, ngày 20 thành lập đội cứu thương, đi tới Dị Huyện.
  • Tháng 10 đại chiến Tân Quan.
  • Năm 1938: 61 tuổi
  • Tháng 2  thành lập Đội Quân Nhân Thường Phục.
  • Tháng 7 nhận được khen thưởng của chính phủ.
  • Tháng 9 đến Hán Khẩu yết kiến lãnh đạo cao nhất, thành lập đoàn giám sát.
  • Năm 1939: 62 tuổi
  • Tháng 5 phụng lệnh đến Trùng Khánh.
  • Tháng 6 đến Côn Minh.
  • Ngày 16 tháng 10 rời khỏi núi Trung Điều đến làm việc ở núi Thái Hành. Trước khi lên đường đã thành lập bệnh viện dã chiến.
  • Năm 1940: 63 tuổi
  • Ngày 9 tháng 3 bị Quân Cộng Sản bắt giữ.
  • Ngày 17 tháng 4 được thả ra.
  • Ngày 8 tháng 5 đến Lạc Dương, lâm bệnh nguy hiểm.
  • Ngày 14 tháng 6 đi máy bay đến Trùng Khánh, 9h30 tối ngày 24 tháng 6 qua đời.
  • Ngày 18 tháng 7 chính phủ hạ lệnh biểu dương. Ngày 29 tháng 11 tổ chức đại hội truy niệm.
  • Năm 1955: 15 năm sau khi qua đời, lập tượng đồng tại Đài Bắc. ( ngày 24 tháng 6 mỗi năm đều có cử hành nghi thức truy niệm).
  • Năm 1961: 21 năm sau khi qua đời, linh mục Gioan và nhiều người khác phát động quyên góp, xây dựng Nhà Kỷ Niệm Minh Viễn.
  • Năm 1965: câu chuyện kháng chiến cứu quốc chuyển thành phim, tên “Tiếng Chuông Khói Lửa”.
  • Năm 1977:
  • Ngày 24-25 tháng 6 tổ chức đại hội kỉ niệm 100 năm ngày sinh.
  • Ngày 3 tháng 9 được tôn thờ trong từ đường anh hùng liệt sĩ.
  • Năm 1990: ngày 24 tháng 6, 50 năm sau khi qua đời, trung tâm Minh Viễn tại Leuven, Bỉ cùng với  đoàn giám mục Đài Loan – Trung Quốc, kết hiệp với dòng tiểu đệ Gioan Tẩy Giả đã có một buổi lễ kỷ niệm long trọng, xuất bản tập san kỉ niệm, và xây dựng Đình Kỉ Niệm Minh Viễn tại tổng hội, hội dòng Gioan Tẩy Giả tại Đài Trung. Đồng thời tiến hành các thủ tục xin phong Thánh cho linh mục Lôi Minh Viễn.

[1]Cả câu bịt tai trộm chuông – 掩耳盜鈴có nghĩa ám chỉ rằng tự lừa dối mình, không lừa dối được người. Lý giải bởi có tích kể rằng có kẻ lấy được quả chuông, mang đi không nổi, bèn dùng vồ đập vỡ để dễ mang. Nào ngờ chuông không vỡ mà tiếng chuông lại vang vọng. Hắn lại sợ mọi người nghe thấy tiếng chuông sẽ kéo tới, bèn bịt tai lại để khỏi nghe thấy.

[2] Trong đời sống của hai Hội dòng Gioan Tẩy Giả và Têrêsa, linh mục Lôi truyền cho gọi “Những nam nữ tu sĩ quản gia” với cái tên gọi rất dị. Đến hôm nay, trong Hội dòng vẫn gọi là “Anh nghèo khó” (Chị nghèo khó).

[3] Lúc ấy, tướng quân Lý Mịch đang ở biên giới Trung Miên săn Cộng, thanh thế hùng hậu, danh chấn quốc tế.